Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Học Làm Người

Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền học thạc sĩ, rồi lại học tiến sĩ, sau nhiều năm đèn sách cuối cùng cũng đã hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui.


Một hôm người đệ tử này trở về, thưa với Đại sư. Thưa thầy nay con đã có học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa? Ngài Tinh Vân bảo: Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

1.      Thứ nhất , “học nhận lỗi”.

Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

2.      Thứ hai, “học nhu hòa”.

Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.

3.      Thứ ba, ” học nhẫn nhục”.

Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

4.      Thứ tư, “học thấu hiểu”. Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

5.      Thứ năm, “học buông bỏ”. Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!

6.      Thứ sáu, “học cảm động”. Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

7.      Thứ bảy, “học sinh tồn”. Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

TRIẾT HỌC THẬT ĐƠN GIẢN!

Cuộc sống muôn màu luôn làm người ta không nhận ra đâu thật, đâu giả? Từ đó không nhận ra được ai say, ai tỉnh. Đó là vấn đề mà triết học sẽ giúp cho con người luôn bình tỉnh, tự tin để sống bình thản trong mọi tình huống. Nhưng không phải ai cũng có thể tiêu hóa được triết học một cách nhẹ nhàng. Vì các thuật ngữ triết học bị các nhà tư tưởng làm điên con chữ và mù nghĩa cho đại chúng. Nên bài viết này cố gắng làm bình dân hóa ngôn ngữ "hàn lâm" của triết.

Cái gì cũng vậy, khi muốn hiểu nó, việc đầu tiên và duy nhất là phải hiểu khái niệm, định nghĩa của nó một cách tường tận. Việc này sẽ giúp ta được nhiều việc có ích không ngờ mà ta không thể tưởng tượng ra. Ví dụ, để biết cái bất thường, tìm ra cái phát minh mới thì phải hiểu cái bình thường, cái định nghĩa cơ bản của một sự vật hiện tượng, thì mới thấy được cái ý tưởng mới để mà nghiên cứu, tìm tòi.

Như vậy để hiểu triết học là gì ta phải hiểu định nghĩa của triết học nó ra sao? Trước hết chúng ta phải có định nghĩa của nó. Cho đến bây giờ mọi sách vở đều đồng ý với định nghĩa đầy đủ và xúc tích nhất như sau:

Triết học là một bộ môn chung nhất. Nó nghiên cứu về sự vật và hiện tượng của khoa học tự nhiên và xã hội, để tìm ra các quy luật của đối tượng nghiên cứu.

Khi đã nói đến nghiên cứu thì, phải nói đến mục đích của nghiên cứu. Và mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận của sự vật và hiện tượng mà chúng ta đang muốn tìm tòi nghiên cứu.

Như định nghĩa trên, nó có thể chia làm 2 phần: thứ nhất là nó là bộ môn chung nhất. Nhưng mà chung nhất cái gì? Theo hiểu biết của tôi, nó cho ta sự chung nhất trong phương pháp luận để nghiên cứu. Và phương pháp luận đó là: từ ghi nhận các sự vật hiện tượng một cách trung thực, khách quan để đưa vào nghiên cứu bằng trí não gọi là tư duy trừu tượng để đúc kết thành qui luật của sự vật hiện tượng. Sau khi có quy luật rồi đem ra chứng nghiệm lại thực tế cuộc sống để đi đến kết luận khách quan. Đó là con đường đi đến một kết quả khoa học khách quan về sự vật hiện tượng mà ta muốn nghiên cứu.

Thứ hai của định nghĩa là, nó nghiên cứu về cả khoa học tự nhiên (toán, lý, hóa, sinh, sinh lý, sinh hóa, v.v...) và khoa học xã hội (giáo dục, tâm lý, kinh tế, chính trị, văn hóa, quản trị kinh doanh, etc...) để tìm ra các quy luật của các khoa học này.

Ta lại tìm hiểu thêm mục đích của triết học lại có 2 khái niệm rất mù mờ. Thứ nhất là, bản thể luận của sự vật hiện tượng. Theo hiểu biết của tôi thì, bản thể luận của sự vật hiện tượng là cái mà còn chưa biết mà ta muốn nghiên cứu nó như thế nào về mặt bản chất. Ví dụ, hiện tượng xã hội gần đây bùng lên chuyện tin vào tâm linh, bói toán thì bản chất của nó là gì?

Vấn đề thứ hai của mục đích triết học là nhận thức luận của sự vật hiện tượng. Theo hiểu biết của tôi thì, nhận thức luận của sự vật hiện tượng là phương án giải quyết cho bản thể luận của sự vật hiện tượng. Tức là phương án giải quyết cho bản chất của vấn đề mà ta còn đang chưa hiểu mà ta phải nghiên cứu nó để hiểu. Sau khi nghiên cứu và hiểu bản chất của nó rồi, thì ta đưa ra phương án để giải quyết nó phù hợp nhất. Đó là nhận thức luận của sự vật hiện tượng.

Ví dụ như, hiện tượng xã hội gần đây bùng phát chuyện dân chúng tin vào tâm linh, cầu hồn, cầu siêu có bản chất là người dân mất lòng tin vào cuộc sống. Thế thì nhận thức luận của việc này là phải làm sao đưa ra phương án để cho người dân có lại lòng tin vào cuộc sống.

Tất cả mọi việc của triết học chỉ có vậy. Và thông qua đó, các nhà tư tưởng đã đưa ra những trường phái triết học khác nhau. Mỗi trường phái có những khái niệm cơ bản khác nhau và những lĩnh vực cơ bản khác nhau để làm nền tảng cho kiến thức để giúp cho chúng ta sử dụng trong cuộc sống, học tập, nghiên cứu khoa học. Nhưng không có trường phái triết học nào là toàn bích, toàn mỹ hay hoàn hảo. Mà mỗi trường phái có ưu điểm và khuyết điểm khác nhau.

Ví dụ, trường phái duy vật luận thuần duy lý và chính xác nên nếu áp dụng vào khoa học tự nhiên sẽ rất tốt, nhưng khi áp dụng vào xã hội học sẽ thiếu tính nhân bản. Còn trường phái duy tâm siêu hình thì sẽ bổ sung cho duy vật về tính nhân bản. Nếu hiểu được như thế một cách đầy đủ, ta sẽ thấy có những hình thái chính trị đơn nguyên tả khuynh cực đoan là tại sao? Và tại sao có những hình thái chính trị đa nguyên hữu khuynh ôn hòa và cực đoan.

Triết học chỉ có vậy. Nó thật đơn giản phải không? Hãy hiểu nó thật bình dân như ta thấy sự việc xảy ra, ta suy nghĩ tại sao nó có, và nó có để làm gì? Ai hay cái gì làm cho nó có? Bản chất của nó là gì? Rồi ta đi tìm tính qui luật của nó. Sau đó ta trả lời câu hỏi để giải quyết nó ta phải làm sao? Đó là triết học đấy các bạn.

Cô gái thất tình và nhà hiền triết trẻ

Có một ngày, cô gái vừa chia tay người yêu ngồi tại công viên khóc lóc, lúc này một nhà hiền triết trẻ xuất hiện, nhỏ nhẹ hỏi cô ấy:
“Cô sao thế? tại sao lại khóc một cách đau khổ thế này?
Người thất tình trả lời:
“Uhmm… Tôi không hiểu vì sao anh ta rời xa tôi, tôi cảm thấy rất đau khổ.”
Không ngờ, nhà hiền triết trẻ lại cười giòn tan, và nói:
“Cô thật ngốc”.
Cô giận đỏ cả mặt:
“Anh sao thế? tôi vừa bị ruồng bỏ đã rất đau khổ, anh không an ủi, khuyên can tôi thì thôi, anh còn lại quở mắng tôi thế àh".
Nhà hiền triết quay lại trả lời:
“Cô bé thật ngốc, chuyện này chẳng lý do gì phải đau khổ cả. Người đáng phải đau khổ chính là anh ta. Vì…
Cô chỉ mất đi một người không yêu cô.
Còn anh ta lại mất đi một người yêu anh ta.
Hiểu rồi chứ?"
Cô gái im lặng không nói gì và trở về nhà. Thời gian trôi dần những nỗi buồn trong cô cũng nhẹ vơi đi. Còn chàng trai kia lại ngày càng sống trong đau khổ và tiếc nuối vì đã đánh mất tình yêu của cô gái, một tình yêu mà trước đây anh chưa từng có và sau này cũng chẳng thể nào tìm kiếm được.
Điều sau cùng mà chàng trai hiểu ra đó là: "Cái quý nhất trên thế gian không phải là thứ “không đạt được” và “đã mất đi”, mà là “biết nắm bắt lấy hạnh phúc hiện tại". 

Vì thế bạn hãy nâng niu cuộc sống, nâng niu tình yêu của bạn!
 

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

TÌNH HUYNH ĐỆ KI-TÔ GIÁO

Một trong những khía cạnh của đời sống con người trong mối tương quan với người khác là tình huynh đệ. Chúng ta không ngừng nói về tình huynh đệ và nó cũng được định nghĩa theo những nhãn quan riêng của từng người hay từng nhóm người. Tình huynh đệ có thể được xem là đời sống tình cảm trong lòng của một gia đình, một họ tộc ; tình huynh đệ cũng có thể được xem như một mối quan hệ con người vượt qua ranh giới của quan hệ ruột thịt. Nền tảng của tình huynh đệ, tức là những yếu tố làm nên đời sống huynh đệ cũng đa dạng.


Quả vậy, đời sống huynh đệ là những gì thiết yếu mà các cộng đoàn nhân loại tìm kiếm. Tôi sẽ giới thiệu những trình bày của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI trong cuốn sách “Đời sống huynh đệ Ki-tô giáo”.

Ý tưởng về tình huynh đệ trước và ngoài Ki-tô giáo

“Anh em” trong văn hóa Hy-lạp cổ

Theo truyền thống triết học Hy-lạp cổ, tình huynh đệ trước tiên là mối quan hệ máu mủ theo logíc tự nhiên. Tuy nhiên, tình huynh đệ cũng được tìm thấy trong những mối tương quan xã hội khác.

Trong các tác phẩm của Platon chúng ta tìm thấy việc mô tả về một đồng bạn công dân là người anh em, hay gọi một người bạn là anh em. Điều này cho chúng ta hiểu ít nhất hai vấn đề của tình huynh đệ. Thứ nhất, tình huynh đệ không còn được đặt nền tảng trên mối quan hệ máu mủ, nhưng được mở rộng tới mọi người của một quốc gia. Thứ hai, đồng thời nó cũng khằng định cho chúng ta là những người ngoại lai không được xem là anh em.

Tình huynh đệ trong truyền thống Do-thái giáo

Trong Cựu ước, đối với dân Ít-ra-en, “anh em” được hiểu trong những người cùng chung tôn giáo. Có hai cụm từ thường được sử dụng để chỉ về điều này: “đồng hương” (những anh em) và “láng giềng” (những người ngoại lai).

Chúng ta thấy có một điểm tương đồng giữa quan điểm Hy-lạp và Do-thái. Đối với văn hóa Hy-lạp, cộng đồng chính trị trở thành cộng đồng tôn giáo trong mối dây tình huynh đệ; đối với người người Do-thái, cộng đồng tôn giáo trở thành cộng đồng chính trị. Từ đây chúng ta bắt gặp hai lãnh vực luân lý thuộc hai nhóm: “Dân Thiên Chúa” và “Dân ngoại”. Câu hỏi được đặt ra trong câu chuyện người Sa-ma-ri-a tốt lành: “Ai là người thân cận tôi” liên quan đến vấn đề này.

Chúng ta cũng nhận thấy một phẩm chất đặc biệt khác của Cựu ước. Một người anh em là người thuộc về dân tộc được tuyển chọn của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là tình huynh đệ không phụ thuộc một cách đơn thuần dựa theo dòng tộc, nhưng theo việc tuyển chọn bởi Thiên Chúa. Tình huynh đệ không đến từ một cộng đồng chính trị (theo văn hóa Hy-lạp) mà đến từ Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa của tất cả mọi người.

Thiên Chúa không chỉ được dành riêng cho dân tộc Ít-ra-en, mà Thiên Chúa của tất cả. Như vậy, “dân tộc được tuyển chọn” cũng được hiểu theo nghĩa rộng, không được giới hạn nơi dân Ít-ra-en. Lịch sử Kinh Thánh, lịch sử Ít-ra-en được hiểu trong lịch sử phổ quát của một nhân loại. Tất cả mọi con người, Ít-ra-en và Dân ngoại thiết lập một nhân loại duy nhất từ việc tạo dựng của Thiên Chúa. A-dam tượng trưng cho một nhân loại đầu tiên và Nô-ê là một nhân loại mới thứ hai được sinh ra. Bảng gia phả của sách Sáng Thế ở chương 10 (một sự tập hợp chung mọi nguồn gốc) nổ lực chứng minh rằng toàn bộ lịch sử nhân loại hiện hữu qua sự cứu độ của Thiên Chúa bằng giao ước với Nô-ê. Trong ý nghĩa này tình huynh đệ được hiểu theo tính đại đồng.

Tình huynh đệ trong chủ nghĩa Mác-xít

Trước khi đề cập tới ý tưởng về tình huynh đệ trong chủ nghĩa Mác, chúng ta cần nhắc tới phong trào Ánh Sáng, được đánh dấu bởi cách mạng Pháp, là tiền đề cho phong trào cộng sản. Cách mạng Pháp đã khai sinh cho nước Pháp câu tuyên ngôn chung: tự do, bình đẳng, huynh đệ. Tuyên ngôn ngày xác định tình huynh đệ đồng quyền chính trị. Thật vậy, thiết lập lại quyền bình đẳng tự nhiên giữa tất cả mọi người là nguồn gốc của tình huynh đệ mà Cách mạng pháp nhắm tới.

Tư tưởng này làm tiền đề cho ý tưởng Mác-xít về tình huynh đệ mà từ “đồng chí” là biểu tượng. Tuy nhiên, chúng ta biết, trong tư tưởng Mác-xít, ý tưởng về Thiên Chúa như người Cha chung bị biến mất; đồng thời ý tưởng về một nhân loại chung cũng mất tầm quan trọng. Tại sao vậy?

Chúng ta thường lầm tưởng chủ nghĩa cộng sản đem lại một thế giới đại đồng. Ý thức hệ cộng sản thực sự lại không phải như vậy. Nếu như phong trào Ánh Sáng muốn xóa bỏ ranh giới của sự khác biệt, trong tư tưởng Mác-xít nhân loại lại được chia ra thành hai nhóm hoàn toàn đối chọi nhau: giai cấp tư bản và giai cấp vô sản. Điều này đặt thế giới vào hai thái cực khác nhau và chống lại nhau : một sự phân rẽ trong cùng nhân loại, một cuộc đấu tranh sinh tồn. Hệ quả là nó không thể đối xử với tất cả mọi người như anh em, nhưng chỉ với một số. Những người khác là địch !

Ý tưởng về tình huynh đệ trong Ki-tô giáo

Qua các Tin Mừng

Các nhà chú giải Kinh Thánh tìm thấy những nhóm bản văn khác nhau nói về “anh em” trong các Tin Mừng.

Nhóm đầu tiên (những bản văn) tiếp quản việc sử dụng từ “anh em” của Cựu ước. “Anh em” có nghĩa là những người cùng cộng đoàn tôn giáo (cộng đoàn Do-thái giáo). Tất cả những bản văn này được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu (x. Mt 5,21-24; 18,15-17).

Nhóm văn bản thứ hai đề cập đến “anh em” không được sự dụng một cách thông thường bởi những người Do-thái, nhưng được sử dụng một cách đặc biệt bởi cách kinh sư. Họ sử dụng từ “anh em” để nói về các môn sinh của mình. Chính Chúa Giêsu cũng đã áp dụng nó cho nhóm mười hai. Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa các kinh sư và Chúa Giê-su trong việc sử dụng từ “anh em”.

Trước hết, tình huynh đệ của những môn đệ giữa họ và với Đức Giê-su được nối kết một cách chặt chẽ với tình phụ tử của Thiên Chúa, khác với mức độ quan hệ thầy-trò của các kinh sư. Bằng chứng trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Chúa Giê-su yêu cầu các môn đệ : “Các con không được gọi ai là thầy, bởi vì các con chỉ có một thầy và tất cả các con là anh em với nhau” (Mt 23,8). Từ đây chúng ta nhận thấy “anh em” mang chiều kích Ki-tô giáo : Thiên Chúa là nền tảng của tình huynh đệ.

Tiếp đến, khi Chúa Giê-su gọi các môn đệ của mình là “anh em”, đó là điều hoàn toàn khác với các kinh sư gọi các môn sinh. Nhóm mười hai là biểu tượng của Dân Thiên Chúa mới, một dân của những người là anh em với nhau.

Nhóm văn bản thứ ba hoàn toàn thuần túy Ki-tô giáo. Đoạn Tin Mừng theo thánh Mác-cô là một ví dụ điển hình (Mc 3, 31-35: ai mới thật là thân nhân của Đức Giêsu?)

Trong đoạn Tin Mừng này, mối quan hệ thiêng liêng vượt lên trên mối quan hệ máu mủ. Đối với Đức Giê-su, những người anh em là những người kết hợp với Người và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Tình huynh đệ không được xem là trật tự tự nhiên, nhưng phụ thuộc vào quyết định của tinh thần, nói vâng với ý muốn của Thiên Chúa. Khi Chúa Giê-su nói: “Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10, 29-30), Người muốn ám chỉ một gia đình mới, lớn lao hơn được cấu thành từ những thành viên của những cộng đoàn Ki-tô hữu.

Trong Tin Mừng Mát-thêu, chương 25, chúng ta cũng nhận thấy quan điểm Ki-tô giáo về tình huynh đệ hoàn toàn riêng biệt so với những quan điểm khác. Chúa Giê-su gọi những người nhỏ bé, vô danh, túng thiếu nhất là anh em. Một điều đặc biệt trong đoạn Tin Mừng này là không có một dấu hiệu nào nói lên rằng họ là những tín hữu, những người đã tin vào Tin Mừng, nhưng tất cả mọi con người túng thiếu, bần cùng, nghèo khó, bị bỏ rơi, bị bách hại hay bị tù đày được chúc phúc.

Qua các bản văn của thánh Phao-lô

Thánh Phao-lô đã đánh dấu một bước ngoặt thật sự cho sự phát triển Ki-tô giáo tách khỏi Do-thái giáo. Việc sự dụng cụm từ “anh em” trong văn bản của thánh Phao-lô là một bằng chứng cho sự tách biệt này. Đối với thánh Phao-lô, “anh em” là những Ki-tô hữu, cùng chia sẽ niềm tin vào Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô (x. Rm 8,14-17).

Nếu như tình huynh đệ của Ít-ra-en dựa trên tình phụ tử đặc biệt của Thiên Chúa được trao ban trong việc tuyển chọn, trong Ki-tô giáo ý tưởng của tình phụ tử được thiết lập một cách sâu sắc qua Ba ngôi Thiên Chúa. Tình phụ tử của Thiên Chúa được biểu lộ đầu tiên trong Con Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô, và qua Người tới chúng ta. Cũng vậy, Thánh Thần của Người ở trong chúng ta làm cho chúng ta kêu lên Thiên Chúa là “Cha”.  Nói cách khác, tình phụ tử của Thiên Chúa được bộc lộ cho chúng ta qua trung gian của Đức Giê-su Ki-tô trong Chúa Thánh Thần.

Khi nói Chúa Thánh thần, chúng ta nói tới sự cởi mở của Thiên Chúa cho mọi người. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhấn mạnh : tất cả mọi người được mời gọi trở thành Ki-tô hữu, nhưng chỉ ai làm điều đó trở thành anh em. Tình yêu agape có thể tồn tại nơi mọi người, nhưng tình yêu huynh đệ (philadelphia) thuộc về người môn đệ của Đức Ki-tô (cùng một tình thần, tâm hồn hướng về Thiên Chúa).

Qua giáo huấn của các Giáo phụ

Thời kỳ của các Giáo phụ là thời kỳ của Ki-tô giáo tiến sâu vào trong thế giới của người ngoại. Như vậy, phép rửa được xem là hành vi cụ thể mà một người trở thành “anh em”. Phép rửa đồng nghĩa với việc sinh lại và người lãnh nhận chấp nhận đi vào trong “tình huynh đệ” Ki-tô giáo như chính tên của cộng đoàn (cộng đoàn tình yêu). Trong việc sinh lại này Giáo hội là mẹ và Thiên Chúa là Cha. Cũng vậy, việc cử hành bí tích thánh thể là trung tâm của tình huynh đệ.

Tuy nhiên, dần về sau với sự phát triển của Ki-tô giáo, từ “huynh đệ” hay “anh em” dần ít được sử dụng một cách chung, nghĩa là cho tất cả mọi Ki-tô hữu. Nó trở thành một từ riêng được sử dụng trong hàng giáo sĩ, và phát triển trong các tu viện, cộng đoàn tu. Điều này nói lên ý nghĩa đích thực của đời sống của một cộng đoàn tu : sống tình huynh đệ. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này cũng đã đánh mất một ý nghĩa nền tảng ban đầu của những cộng đoàn Ki-tô tiên khởi mà chắc hẳn chúng ta cần phải đào sâu lại ngày nay.

Trần Văn Khuê, aa

Cuộc sống và những va đập

Có một lần, lâu lắm rồi, tôi đọc được một câu chuyện đơn giản mà giàu triết lý sống, đó là câu chuyện về hòn sỏi. Tôi xin kể lại đây lời tự thuật của hòn sỏi với các chi tiết tôi còn nhớ được. Hòn sỏi kể về chuyến đi đầy cam go của mình như sau:

“Tôi vốn xuất thân từ một tảng đá khổng lồ trên núi cao. Tôi nằm đó, trải qua sương gió, nắng mưa trong bao năm tháng dài đăng đẳng. Sau một thời gian, nắng, nóng, mưa và lạnh làm cho người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra thành từng mảnh nhỏ, góc cạnh lởm chởm và lăn xuống núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi qua các dòng sông suối rồi xuôi về biển. Do liên tục bị va đập, lăn lộn trên đường ra biển, tôi bị thương tích đầy mình. Mỗi lần bị va đập, những góc cạnh của tôi đau đớn vô cùng nhưng rồi chúng cũng bớt xù xì lởm chởm mà tròn dần trên chặng đường tôi đi. Và chính những dòng nước cuốn tôi đã xoa dịu và làm lành những vết thương của tôi. Cùng với đớn đau, tôi học được nhiều bài học quý báu và cuối cùng, tôi trở thành một hòn sỏi láng mịn như bây giờ.”
Lời trần thuật của người nào đó gán cho hòn sỏi làm tôi liên tưởng đến quá trình hình thành ngọc trai tự nhiên. Thành phần ngọc trai tự nhiên chủ yếu là xà cừ. Người ta cho rằng ngọc trai được tạo ra khi có một vật lạ nhỏ hoặc hạt cát chui vào bên trong con trai biển và nằm luôn trong đó. Bị kích thích bởi vật lạ này, con trai tiết ra một chất dịch bao bọc dị vật. Đây là cách phản ứng để tự chữa lành các vết thương của loài nhuyễn thể này. Quá trình này lặp đi lặp lại nhiều năm và chất tiết ra đó tạo nên một lớp xà cừ bao bọc lấy hạt cát hay dị vật xâm nhập mà tạo thành viên ngọc đẹp, quý và có giá trị.
Bạn nghĩ gì về những chi tiết trong câu chuyện hòn sỏi và ngọc trai? Trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh khỏi những những va đập đầy biến động. Liệu chúng ta có sẵn lòng ôm ấp những đớn đau và học cách vươn lên trên nỗi đau, để rồi một ngày nào đó chúng ta cũng có thể tạo ra những “hòn sỏi mịn màng hay “viên ngọc trai lấp lánh”? Là con người, không ai được ban tặng một cuộc đời như ý với mọi thứ đều hoàn hảo. Cuộc sống là một quá trình tự mình làm nên với nhiều thử thách cam go. Chúng ta có đủ can đảm để trải qua cuộc hành trình gian khó như hòn sỏi đã trải qua? Liệu chúng ta có đủ bản lĩnh như con trai biển, trong dòng lệ đớn đau với dị vật xâm nhập, tạo nên được những viên ngọc trai lung linh màu sắc?
Đau đấy các bạn ạ, nhưng đủ sức chịu đựng và biết cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau là một nghệ thuật. Nếu như tảng đá vỡ không kiên trì chịu đựng đau thương để lăn tròn góc cạnh, sẽ không có những hòn sỏi tròn láng. Nếu những con trai không chịu đựng nổi sự đớn đau của hạt cát hay dị vật nào đó chui vào bên trong vỏ của mình và có cách phản ứng tự vệ, loài nhuyễn thể có tên gọi là ‘trai’ ấy sẽ không tạo được những viên ngọc lung linh sắc màu. Đã bao giờ bạn thấy được rằng chính những chông gai mới mang lại những bài học quý và để lại những ấn tượng đẹp, dù rằng trong quá trình này, cần nhiều nỗ lực để ôm ấp và chuyển hóa? Đã bao giờ bạn sử dụng chất liệu đau thương để tạo cho mình những hạt ngọc trai kỳ diệu chưa?
Cuộc sống vốn có chu kỳ vận hành riêng mà chúng ta quen ví như là quy luật hình ‘sin’, hết thăng đến trầm, hết trầm lại thăng như sóng biển nhấp nhô. Ta không thể nào thay đổi cuộc sống; việc chúng ta có thể và nên làm là thay đổi thái độ về cuộc sống. Có thể là bạn, có thể là tôi, cuộc sống chẳng bao giờ chỉ mang đến toàn là hạnh phúc. Cuộc sống cũng không bất công đến nỗi chỉ đem đến cho ai toàn niềm đau. Đừng bao giờ nghĩ rằng con đường ta đi chỉ có cỏ gai rác rưởi hay đầy hoa thơm trái ngọt. Nhìn bầu trời, bạn sẽ thấy, trời lúc nào cũng có mây. Áng mây bay qua, cứ để nó bay qua, trời xanh vẫn cứ trong sáng đó thôi. Cuộc đời không quá giản đơn là một mặt phẳng hoặc trắng hoặc đen. Điều quan trọng là biết cách phát huy nội lực mình có được để tự nâng mình vượt lên những nỗi đau, những va đập của cuộc sống để tự hoàn thiện bản thân. Đây là một kỹ năng sống. Trong mọi hoàn cảnh, sống hết mình trong hiện tại với niềm tin trọn vẹn vào chính bản thân mình, hướng về tương lai, tin vào ngày mai tươi đẹp, chúng ta sẽ có một cuộc sống ý nghĩa.
Cuộc sống là tập hợp của vô vàn những điều biến động. Vì vậy, trong mọi cảnh ngộ, chúng ta cần nhớ cuộc hành trình của hòn sỏi và sự hình thành hạt ngọc trai để sống tự tin hơn, để học cách xoa dịu và làm lành những vết thương, thăng hoa trong cuộc sống. Sự va đập của cuộc sống chẳng có gì đáng sợ đâu bạn ạ. Đừng bao giờ nghĩ mình quỵ ngã. Dù có lúc tưởng chừng mất tất cả, ta vẫn còn có niềm tin, nghị lực và cả bài học quý giá từ cái ‘mất tất cả’ đó mà. Nếu biết cách, chính những lúc chưa thành công hay thiếu may mắn ấy là những ‘thành phần’ của liều thuốc chủng ngừa cho cuộc sống mỗi người. Sự trải nghiệm bản thân là bài học sinh động nhất. Một khi chúng ta học được cách chấp nhận đớn đau trong quá trình chuyển hóa những góc cạnh xù xì, chúng ta sẽ trở thành những hòn sỏi láng mịn. Khi nào chúng ta có đủ sức ôm ấp và chuyển hóa những đau thương trong nước mắt, chúng ta có thể tạo nên những hạt ngọc trai quý giá cho đời.

Hằng Như

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2012

Ý nghĩa nhân tính trong văn hóa cổ Hy lạp

1. Văn hóa và ý nghĩa nhân tính
Chúng ta chứng kiến vô số định nghĩa về văn hóa. Mỗi định nghĩa đều tiền kiến một nhận thức nào đó về nhân tính. Phát huy ý nghĩa nhân tính mà chúng ta tiền kiến như là một chân lý hiển nhiên, chúng ta gọi đó là sinh hoạt văn hóa trong nếp sinh hoạt ngày ngày của chúng ta.

Mỗi tác giả, mỗi thế hệ, mỗi truyền thống sinh hoạt văn hóa đông, tây, kim, cổ, cấp vùng, cấp quốc gia hay bộ lạc v.v. đều chiếu theo mẫu mực chân lý về nhân tính, mà người ta tiền kiến đương nhiên phải là như thế, để định chuẩn thế nào là văn hóa và thế nào thế nào là phi văn hóa.
Xuyên qua những hình ảnh rất linh động, cuốn Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân vào cuối thế kỷ16 phác họa những ý nghĩa nhân tính mà, trong mỗi gây phút, bất cứ nơi đâu, mỗi người trong chúng ta có thể tiền kiến và thực hiện ngay trong cuộc sống của mình.  Rồi từ tiền kiến mê lầm đó, mỗi người, mỗi nền văn hóa cứ nhắm mắt đi tới :
-    Chúng ta có một Tề Thiên, con khỉ dựa vào sự hiểu biết để tự định nghĩa mình ngang Chúa Tể Trời Đất, một Ađam và Evà muốn hiểu biết để bằng Thiên Chúa (theoThánh Kinh Do-thái giáo và Ki-tô giáo), một Prométhée con người làm ra Trời trong Bi kịch Prométhée bị trói của thi hào Eschyle, một Oedipe nắm ánh sáng chân lý trong tay trong Bi kịch Oedipe-Vua của Sophocle, Hy lạp, và đặc biệt hơn cả là con người lý trí (homo sapiens) của nền văn hóa truyền thống tây phương.
-    Một Trư Bát Giới, con lợn chỉ biết ăn ngũ, hình ảnh con người chỉ nhận ra mình nơi sinh lực vũ trụ, con người hưởng thụ và vui chơi, một homo ludens làm chuẩn mực cho nhiều trường phái lãng mạng đông tây; và cũng là hình ảnh của con người của văn minh và văn hóa tiêu thụ thời hậu kỹ nghệ chúng ta đang sống.
-    Một Sa Tăng, con dã tràng cần cù lao tác, tiền kiến ý nghĩa nhân tính nơi khả năng biến thiên nhiên thành thế giới văn minh, thành ‘Nhân Loại’ do bàn tay con người tác tạo, thành nếp văn hóa qua chính lao động của mình. Con người homo faber ấy một thời đã là mẫu mực cho nền văn hóa của thế giới cộng sản.
-    Nhưng chúng ta cũng có một Huyền Trang, con người khiêm tốn khao khát đón nhận một Ánh Sáng từ « bên kia bờ » (Huyền) đến cứu độ để « ngộ » được  nhân tính chân thật, – một Ánh sáng mà Tề Thiên, Trư Bát Giới, Sa Tăng… không hề biết đến-.
Ba hình ảnh Tề Thiên, Trư Bát Giới, Sa Tăng tiêu biểu cho vô số ý nghĩa nhân tính khác nhau mà, vì mang nghiệp[1] sai lầm gắn liền với số phận làm người, mỗi người chúng ta đều có thể « tự làm ra cho mình ». Ba hình ảnh tượng trưng cho vô số những nền văn hóa mà mỗi người, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi phương (đông cũng như tây), mỗi dân tộc … tự  xác quyết cho rằng truyền thống, nếp sinh hoạt của riêng mình là cho con đường chân lý duy nhất, cao cả và huy hoàng nhất.
Nhưng bên trên vô số[2] những con đường văn hóa do bàn tay con người làm ra xuyên qua lịch sử, còn có những trực giác ngược đời về ý nghĩa nhân tính, những trực giác đến với con người vượt lên trên những tiền kiến đang trói buộc con người và xã hội[3]. Còn có những Huyền Trang, những thánh hiền, những thi hào, những nhà tư tưởng có duyên tiếp nhận cảm hứng từ bên kia bờ ; họ nhắc chúng ta nên khiêm tốn và tỉnh thức nhận ra thân thế kỳ lạ của mình. Chúng ta hẳn là con người ; thế nhưng chúng ta đang nổi trôi giữa vô số những tiền kiến lạc lầm và mâu thuẩn về ý nghĩa nhân tính của chúng ta !
Bên trên những lối mòn văn hóa mà xã hội cho rằng đương nhiên phải là như thế, còn có ánh sáng do Lửa từ Trời, còn có cảm hứng đến từ « bờ bên kia », cảm hứng mà Nguyễn Du gọi là  « giác duyên », hoặc là ơn lộc bất ngờ đến, có thể đưa con người trầm luân thoát ra cõi « bất nhân » và bước vào cửa của nhà nhân tính (Tiền Đường). Khi bước chân được vào Tiền Đường ấy, văn hóa hay tư tưởng sẽ không còn là nhắm mắt đi tới để phát huy một tiền kiến nào đó về ý nghĩa con người, nhưng là trực giác vềý nghĩa nhân tính như một vấn đề và mải mải sẽ như là vấn đề duy nhất.
2. Phương pháp tiếp cận bộ môn văn hóa
Nếu văn hóa, tư tưởng, đạo lý… có nội dung thiết yếu là trực giác về vấn đề nhân tính, và thể hiện cuộc sống con người dưới ánh sáng của trực giác ấy, thì việc tiếp cận bộ môn văn hóa lại cần đáp ứng ba điều kiện căn bản nầy :

-          Xác định nội dung văn hóa trong khuôn khổ của vấn đề ý nghĩa nhân tính :Một yếu tố hay sinh hoạt có tính cách văn hóa chỉ khi nó có tương quan trực tiếp đến nội dung thiết yếu nầy. Chẳng hạn khi muốn đề cập huyền thoại của dân tộc Việt Nam trong khuôn khổ văn hóa, thì huyền thoại đó phải được qui chiếu vào vấn đề khai triển ý nghĩa nhân tính; nếu không, thì việc làm nầy chỉ được xem là một đối tượng cho bất cứ một bộ môn nào khác mà thôi.
-          Trực giác về ý nghĩa nhân tính phải được thể hiện qua một công đồng con người trong lịch sử, và phải là cương thường hay còn gọi là Đại Ký Ức làm giềng mối hướng dẫn cuộc sống làm người của cộng đồng liên hệ. Chẳng hạn như huyền thoại dựng nước của cộng đồng người Việt (chuyện Hồng Bàng Thị, chuyện Bánh Dày Bánh Chưng, Chuyện Trầu Cau…ghi lại  trong tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái), chẳng hạn như truyện Kiều của Nguyễn Du…, những nội dung như thế đều được hầu hết người dân xem là những ký ức muôn thủa, những hứng khởi quen thuộc gây cảm hứng cho các tập tục, giao tế, sáng tác nghệ thuật .v.v. Nếu một cổ vật nào đó bất ngờ được đào bới lên, nhưng không một yếu tố nào của nó quen thuộc với tâm tư hay nếp sống người dân, thì đó chỉ là một món đồ cổ để trang trí cho vui, chứ không có chút hồn văn hóa nào.

-          Điều kiện thứ ba, và cũng là điều kiện rất quan trọng giúp chúng ta tránh được những suy đoán chủ quan, những giải thích tùy hứng, thường có tính cách chính trị nhất thời hay nặng về ý hệ hơn là một lối tiếp cận có tính cách văn hóa. Điều kiện đó làchứng cứ hay vết tích cụ thể còn lưu lại và có thể truy cứu được. Những chứng cứ cụ thể chẳng hạn như bản văn Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính, các tập tục nghi lễ của người Việt trong năm… Về mặt tiêu cực liên quan đến điều kiện nầy, thế giới không quên được lối làm văn hóa của Đức Quốc Xã trong thế kỷ 20, khi chế độ nầy nêu lên giả thuyết về chủng tộc Nhật-nhĩ-man là chủng tộc tinh tuyền và cao cả của người Đức !
3. Ý nghĩa nhân tính trong văn hóa Cổ Hy lạp
Những nền văn hóa còn tồn tục và chi phối nếp sống thế giới chúng ta hôm nay có nhiều điểm trùng hợp kỳ lạ. Thật thế, những trực giác khai sinh ra chúng đều mang một nội dung duy nhất: vấn đề ý nghĩa nhân tính. Và về thời điểm, các nền văn hóa nầy hầu như cùng xuất hiện vào một thời mà triết gia Karl Jaspers gọi là thời trục (từ khoảng thế kỷ thứ VII trước công nguyên đến thế kỷ thứ V trước công nguyên).
Văn hóa Hy lạp: Thời Bi Kịch Hy lạp [Eschyle (- 525/-457)- Prométhée bị trói, Sophocle (-496/-406) – Oedipe-Vua; các nhà tư tưởng Héraclite (-544/-480), Parménide (-510/…), Socrate (- 470/-399)…
-     Văn hóa Trung hoa : Lão Tử (khoảng -VI) ; Khổng Tử (-551/-479).
-     Đức Phật (- 563/-483) và truyền thống Phật giáo.
-     Truyền thống Thánh Kinh Do-thái giáo và Ki-tô giáo : Thời các Tiên tri (khoảng thế kỷ –IX đến –V), các Bản Thánh Kinh được ghi chép  (khoảng –VII đến –V).

Để có một ý niệm về nội dung trực giác duy nhất của tư tưởng, của văn hóa theo các vị thánh hiền nầy, chúng ta nêu lên đây một số dấu tích nơi những nền văn hóa còn tồn tục.

4. Các nhà tư tưởng Bi kịch Hy lạp

Các nhà tư tưởng Bi kịch Hy lạp, đặc biệt Eschyle và Sophocle trong hai bản kịchProméthée bị trói và Oedipe-Vua, là những chứng cứ hùng hồn về vấn đề nhân tínhnhư là ưu tư duy nhất của văn hóa. Hai nhà nghiên cứu Jean-Pierre Vernant và Pierre Vidal-Naquet đã đưa ra nhận xét chính xác như sau trong tác phầm  Myhte et tragédie en Grèce ancienne :
« Người ta có thể luận chứng rằng … Bi kịch Hy lạp xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ –VI khi lối nói thần thoại không còn tác dụng trên thực tế chính trị của Thành phố nữa…Trong bối cảnh mới của Bi kịch, vai người hùng không còn là một mẫu mực để nêu gương sáng; nhưng nó đã trở thành một vấn đề cho chính mình và cho kẻ khác… ».[4]
            
« Trong nhãn quan Bi kịch, người và sinh hoạt con người không được trình bày như những thực tại mà ta có thể định nghĩa hay mô tả, nhưng như những vấn nạn. Những nội dung nầy được xem là những ẩn số mà ý nghĩa song mang của chúng không bao giờ có thể thiết định và thấu triệt nổi. »[5]
Qua bản kịch Prométhée bị trói, Eschyle nêu lên cuộc chiến bi thảm làm nên đạo lý con người. Cuộc chiến làm người, cuộc chiến đem lại ý nghĩa cho nhân tính ấy được mô phỏng qua hai khuôn mặt, hai lý lịch mâu thuẩn của Prométhée :

-          Một Prométhée ăn cắp lửa của Trời Cao, đánh tráo nguồn ánh sáng liên quan đến sự hiểu biết về ý nghĩa nhân tính và dẫn đưa con người vào đường lầm lạc. Prométhée nầy chỉ biết nguy cơ ‘trước mắt’ của con người nơi khổ đau thân xác – sinh, lão, bịnh, tử-, và tìm cách cứu con người bằng con đường hiểu biết, bằng khả năng làm nên xã hội văn minh, kỹ thuật, bằng việc tôn vinh thần thánh[6] theo ước muốn và trí tưởng tượng của mình đi kèm với những phù phép, nghi lễ linh tinh …, nhằm tạo ra những hy vọng hão huyền[7]. Con đường nầy gọi là Τέχνη (là Vi trong Đạo Đức Kinh, là Karma trong ngôn ngữ nhà Phật, là Tài theo lối dùng chữ của Nguyễn Du, là Ta tự làm ra Ta). Con đường nầy là con đường mà thiên hạ (Xem chương II Đạo Đức Kinh), tức là chúng ta trong nghiệp chết mất nhân tính hoặc quên lãng lý lịch của mình, đang đi.

-       Nhưng còn có một Prométhée khác, Prométhée con của Thémis (Công Lý), chứ không phải Prométhée ăn cắp lửa vốn là con của Gaia (Thổ địa) tự nhận là Thémis. Prométhée nầy chia sẻ khổ đau cùng nàng trinh nữ Io (hình ảnh của nhân loại nguyên sơ vô tội). Khổ đau nầy liên quan đến Κρόνοζ là Thời riêng của nhân tính. Κρόνοζ là Thời mà con người không nhận ra, vì con người bị nghiệp lầm che mờ đã giản lược vào thời gian vũ trụ, thời gian của « sinh, lão  bệnh, tử ». Khi được cư ngụ nơi Κρόνοζ, Thời của nhân tính, nàng trinh nữ Io và Prométhée sẽ  khổ, vì « từ bên kia bờ » (Eschyle gọi là từ bóng đêm đối chiếu với ngày của lửa ăn cắp) Đấng Siêu Việt luôn cháy lửa yêu thương và muốn đêm ngày sống chung cùng giường với nàng để mối liên kết Trời-Người, là hôn nhân (Гάμος) làm nên sức sống mới của nhân tính[8], được khai sinh. Nàng Io và Prométhée con của Thémis (Công Chính) khổ vì phải chết đi thân phận lầm lạc cũ, thân phận tự mãn, cô đơn không tương giao với Ai Khác.  Họ khổ vì, nơi nhân tính mới được hình thành trong mối tương giao mới, Đấng Siêu Việt đến với con người luôn vượt lên tài sức hiểu biết và đo lường của con người. Và từ Lửa Trời, từ tình yêu siêu việt của Ai Khác bên kia bờ đến với mình, nay con người được nối kết với con người, – Prométhée nối kết với Nàng Io-,  qua mối thông giao Nguồn Khổ là sinh lực mới của nhân tính. Sinh lực mới nầy giúp người con của Thémis hoàn thành nhân tính trong cuộc chiến với Hermès, sứ thần của thế giới ảo tưởng (của lửa ăn cắp), và kiên cường cư ngụ nơi Nguồn Khổ của Κρόνοζ, Thời của nhân tính (Xem phần kết Bi kịch nầy của Eschyle).
Sức sống văn hóa nay là cuộc chiến làm người giữa hai Prométhée, giữa Τέχνη (Tài)và Μοϊρα (Mệnh), hai thân phận mâu thuẩn của nhân tính.
Qua kịch bản Oedipe-Vua, Sophocle lại đưa cuộc chiến làm người nầy đến mức rốt ráo hơn nữa. Ca đoàn trong Bi kịch gọi đây là cuộc chiến kỳ diệu (πόλεμος δε γ´πόλεμος )[9]. Nó không còn được diễn tả gián tiếp như trong bản kịch của Eschyle, nhưng đây là cuộc vật lộn nêu đích danh hai bộ mặt, hai lý lịch của nhân tính :
-          Một bên là Oedipe, – homo sapiens-,  con đường (Πους = chân) của người hiểu biết (Oĩδα = biết, thấy) có hai mắt mở toang ra nhìn dưới ánh sáng của trí năng, của khả năng đo lường sự vật, chế ngự được thời gian và thân xác. Nhờ khả năng hiểu biết sự vật nầy, con người tạo ra cho mình một thế giới những ý tưởng trừu tượng, phổ quát, không đổi thay, « không chết ». Con người nầy tự định nghĩa nhân tính của mình như kẻ nắm ánh sáng hiểu biết trong tay[10], biến thần thánh, con người, và mọi sự trên trời dưới đất thành những đối vật mà mình là chúa tể có khả năng chế ngự, thành những dụng cụ cho quyền năng thống trị duy nhất của mình. Trong thế giời của con người làm chủ tuyệt đối ấy[11], không có thần, không có người, chỉ có đối vật. Người hiểu biết nầy được mô tả là mất thần, vô thần (Νν δ´ θεος μέν εμ´)[12]hay sát thần. Thay vì làm Prométhée ăn cắp ánh sáng của Trời, làm người vẽ bày thần tượng theo ý mình rồi cắm đầu chạy theo thần tượng ấy như bi kịch của Eschyle gợi lên, nay người hiểu biết Oedipe trong bi kịch Sophocle lại tự tuyên dương chính mình là ánh sán(ἐγὼ φανῶ), là cha đẻ ra nhân tính của mình. Trên đường đi tìm Đạo bằng đôi mắt mở toang, chính Oedipe giết Nguồn ẩn kín ban cho mình lý lịch làm người (cha ruột Laios), rồi ngồi vào ghế của Vua Cha, và lấy cả Mẹ ruột Jocaste làm vợ. Mẹ Jocaste, Nguồn tình yêu ấy của Cha mình, là Thời[13] đưa mình vượt lên trên thân phận các sinh vật trong vũ trụ, nay bị người hiểu biết homo sapiens giản lược thành thời gian của thế giới tự nhiên mà mình có thể chế ngự (thành vợ) để sinh ra muôn ngàn ý niệm về người, muôn ngàn định nghĩa nhân tính dị dạng[14], rợp khôn theo ý thích và tưởng tượng của trí khôn.

-          Nhưng gắn liền với một homo sapiens Oedipe mất thần đó (θεος), còn có con người linh-ư-vạn-vật, một Oedipe mang dấu tích KHỔ ở chân do người Cha ẩn kín Laios ghi khắc[15] nhằm giúp con người mang nghiệp lạc lầm nhận ra nhân tính hay lý lịch siêu việt. Thật thế, tên gọi Oedipe có nghĩa là bước chân ‘người tài trí’ homo sapiens (Oĩδα), nhưng đồng thời cũng có nghĩa là ‘người mang thương tích khổ đau ở chân’ (Οδί – Οἰδαλέος). Trong thân phận tại thế lạc lầm của Oedipe, Nguồn Khổ là Mẹ Jocaste, hiện thân cho Lửa Trời, cho tình yêu của Cội Nguồn Siêu Việt ẩn kín Laios, cho nỗi Nhớ Laios[16]. Nguồn Khổ Jocaste nầy là Thời mới, là Mẹ tái sinh một nhân tính chân thật được nuôi dưỡng bằng mối tương giao với Cội Nguồn thần thánh. Mối tương giao căn nguyên làm nên nhân tính được Sophocle gọi là hôn nhân (Гάμος)giữa con người và Người Cha ẩn kín. Chính mối tương giao mới nầy (chiều kích Trời, chiều kích thần thánh của con người) sẽ tố giác sai lầm[17] của con người, khi con người dựa trên mối tương giao giữa ‘chồng Oedipe’ và ‘vợ Jocaste’ (giữa con người và thiên nhiên bên ngoài, mối tương giao mà ta thường gọi là lý trí, là thước đo Đất) để định nghĩa nhân tính. Trong mối tương giao mới làm nên nhân tính, Thần và người chung quanh mình luôn là Kẻ Khác và những người khác, theo nghĩa là siêu việt, vượt lên trên mọi hình thức đo lường của tài trí con người. Nhân tính không còn bị tiền kiến là một bản thể bất biến và cô đơn tự mãn, một chủ thể chế ngự những đối vật trong thế giới ý tưởng (ý thức hệ) do mình tạo ra nữa ; nhưng nay là mối tương giao giữa người với Kẻ Khác và với những người khác, mải mải là khác mình nhưng luôn nối kết với mình. Khi đưa tay lấy kim găm trên áo Mẹ Jocaste, là Nguồn Khổ – Nỗi Nhớ Laios-, để đâm vào mắt chính mình hầu tiếp nhận Nỗi Nhớ Nguồn, Oedipe thông dự vào Ánh sáng mà đôi mắt mở toang của trí khôn luôn bất cập, thông dự vào Ánh sáng ‘từ bên kia bờ’ mà  đôi mắt mù của tiên tri Tirésias, kẻ phát ngôn Chân Lý và am tường lý lịch thật cũng như tội ác của Œdipe, là tượng trưng. Và trong Nỗi Nhớ đến từ Nguồn Khổ nơi Mẹ Jocaste, Oedipe không còn nhìn những người dân Thành Thèbes là thần-dân, là đối vật ‘dùng’ cho quyền uy hiểu biết của mình. Nhưng nay họ là những con người, những « người khác » giống mình, cùng mình chia sẽ Nỗi Nhớ Nguồn, và nối kết với mình để cùng nhau hoàn thành nhân tính chung trong Nỗi Nhớ căn nguyên nầy (Xem phần hai của Bi kịch).
5.  Tư tưởng thi ca của Héraclite và Parménide
Nhân tính gắn liền với hai thân phận căn nguyên
-    vừa có thể chết mất vì mê lầm bởi Tài mà mình hiện mang vào thân,
-    lại vừa có thể được Mệnh là Khổ cứu độ để thức tỉnh và tìm lại lý lịch ẩn kín của mình,
nên con đường hoàn thành nhân tính, hoặc còn gọi là Đạo làm người, là một cuộc giao tranh thần thánh, một cuộc giao tranh mà không vị thánh hiền đông tây, cổ kim nào lại không cảm hứng và không xem đó là cốt lõi của văn hóa.
Sophocle ca ngợi cuộc giao tranh thần thánh ấy như sau :
Ca đoàn : «  Đây là cuộc chiến vinh quang đem lại sự sống cho dân nước, xin Trời đừng bao giờ để nó phải ngưng nghỉ.-  Τ καλς δ´ χον πόλει πάλαισμα μήποτε λσαι θεν ατομαι· »[18].
Thật thế, bên trên lối nhìn của nhà tư tưởng ‘đo đất’ Aristote từng mô tả Héraclite, Parménide, Socrate là những nhà hiểu biết truy tìm bản thể của các sự vật (physiologues), một lối nhìn được truyền thống triết học lặp đi lặp lại, chúng ta có thể gặp được nơi các hiền nhân Hy lạp nầy những cảm hứng thi ca đến từ bên kia bờ mặc khải nội dung duy nhất, đó là vấn đề ý nghĩa nhân tính và đạo lý làm người nơi cuộc chiến vinh quang. Họ không truyền đạt gì khác hơn ngoài những cảm hứng mà các nhà tư tưởng Bi kịch đã gợi lên.
Héraclite đã mở đầu cuốn sách của mình bằng câu : « Λόγος (Lý, Tương giao) người ta/ mải mải/ không thể biết được - (το δ) λόγου τοδ ἐόντος (εξύνετοι γίγνονταινθρωποι)’».[19]  Đây là câu tóm kết toàn bộ tư tưởng của Héraclite[20], một câu nói mà truyền thống Tây phương xem như viên đá xây dựng nền móng văn hóa và tư tưởng.
Nhưng đây cũng là viên đá làm vấp ngã. Và vấp ngã như thế vốn là nghiệp chướng của bất cứ nền văn hóa nào, vì văn hóa vốn gắn liền với thân phận ‘có thể lầm lạc tự căn’  của con người.
Vào giai đoạn hai của tư tưởng của Platon, còn gọi là thời xây dựng hệ thống triết học, và nhất là trong các tác phẩm của Aristote, Λόγος được hiểu là lý (ratio, la raison), là sợi giây nối kết hay sức sống của vũ trụ và đồng thời cũng là khả năng am tường của con người về lý ấy. Với ý nghĩa nầy của Λόγος (lý), con người nhận ra mình là chủ vũ trụ[21] và định vị lý lịch được xem là cao cả của mình. Con người đo lường được vũ trụ và từ đó cũng đo lường được lý lịch của mình dựa vào cùng một lọai thước đo. Con người như thế thường được gọi là con người có lý trí hoặc con người hiểu biết (homo sapiens). Cũng vì thế Aristote gọi các nhà tư tưởng tiền-Socrate là những nhà vật lý (physiologue, physicien) hoặc là những nhà thâm cứu về nguyên lý của vũ trụ. Và từ đó, với ánh sáng của người hiểu biết chỉ thấy được tương giao con người và vũ trụ – tương giao mà Sophocle gọi là hôn nhân dị dạng (γαμον γάμον) giữa Oedipe và Jocaste -, Λόγος của hiền nhân Héraclite bị giản lược thành lý trí, thành thước đo đất. Héraclite nay trở thành một nhà ‘đo đất’ (géo-mètre) chập chững đi vào khoa học về nguyên lý vũ trụ, như lời đánh giá minh nhiên của Aristote trong quyển đầu của tác phẩm Siêu Hình Học (Métaphysique)[22].
Nhưng bên cạnh một Héraclite bị biến thể thành nhà « đo đất », những tác phẩm đầu của Platon[23] còn cho biết có những nhà tư tưởng thi ca Cổ Hy Lạp, trong đó có Héraclite, chỉ ưu tư về thân phận con người, chứ không màng kiến thức nào khác (rien de trop). Và Λόγος nêu lên ở đầu câu và đầu tập sách của Héraclite là mối tương giao làm nên nhân tính như Eschyle, nhà tư tưởng đương thời với ông, đã gợi lên qua chữГάμος (và Sophocle sẽ dùng lại). Λόγος cũng là Гάμος, là tên gọi nhân tính chân thật được kết dệt nơi hôn nhân giữa Đấng Siêu Việt (Zeus trong đêm) và nàng trinh nữ Io.Λόγος,  cao cả, Tương giao kỳ bí, không phải là  (la raison) được hiểu là khả năng hiểu sự vật hoặc là  lửa của Prométhée, tên đánh tráo Lửa từ Trời. Ngược lại, « bên kia bờ » của thước đo đất, của ánh sáng hiểu biết con người và của thời gian vũ trụ đang đổi thay, Λόγος là mối Tương giao của Sấm Sét[24], của Lửa Trời bất ngờ đến với con người. Tương giao mới nầy đốt cháy và tiêu hủy ‘con người được định nghĩa trong khuôn khổ ánh sáng đo đất’ thành tro bụi, và thổi vào con người một thần lực[25]mới, nâng con người siêu vượt lên trên vũ trụ (linh ư vạn vật).
Với trực giác về Λόγος đến từ Trời, con người nhận ra mình mang hai thân phận gắn liền với hai lý lịch, hai ý nghĩa về «  », hai tương giao mâu thuẩn loại trừ nhau[26]. Nay con người được đưa vào cuộc chiến (Πόλεμος)[27] để hoàn thành nhân tính, một cuộc chiến vượt lên trên tất cả những tương phản trong thiên nhiên và những biện chứng phát xuất từ nhận thức con người. Chính cuộc chiến thần thánh nầy gây cảm hứng cho tư tưởng Bi kịch Hy lạp, và đó cũng là nội dung duy nhất nơi Đạo lý của các thánh hiền cổ kim đông tây.

Song song với Héraclite, thi hào Parménide, một cột trụ khác của văn hóa Cổ Hy lạp cũng không tuyên dương gì hơn ngoài Đạo lý làm người được trực giác như là cuộc chiến giữa hai thân phận mâu thuẩn gắn liền với nhân tính. Và y như trường hợp của tư tưởng Héraclite, Bài Thơ của Parménide, vốn là trực giác con người là ai, vốn là tư tưởng ‘thi ca hướng đến mặc khải về nhân tính’,  thì cũng đã bị lịch sử văn hóa biến thành một bản lược khảo về hữu thể, – một hữu thể được giải thích là bản chất mọi sự vật dưới quyền uy của lý trí hiểu biết, của khả năng đo đất-. Nói cách khác, từ một thánh hiền Parménide trong văn hóa Cổ Hy lạp, nay truyền thống triết học (đặc biệt từ Aristote) đã giáng xuống thành nhà vật lý (physiologue) truy nguyên nền tảng muôn vật trong vũ trụ. Từ cuộc chiến thần thánh làm người giữa hai tương giao mâu thuẩn loại trừ nhau mà các nhà tư tưởng Bi kịch cũng như Héraclite đã trực giác được, nay, với tiền kiến về ý nghĩa nhân tính nằm trong khả năng đo lường sự vật, nó lại bị thái hóa thành cuộc xung đột giữa một bên là bản thể thường hằng (permanent) và khả tri (intelligible) của mọi vật[28], và bên kia là thế giới khả giác (sensible) và đổi thay (changeant) tùy thuộc vào không gian và thời gian.

Bài Thơ của Parménide thật sự bắt đầu bằng những hình ảnh cuộc gặp gỡ giữa cáccon gái của Mặt Trời (λιάδες)[29] với con người, để con người gặp (ngộ) được ánh sáng mới (εδότα φτα[30] và được đưa qua « bên kia bờ », vượt qua trí năng hiểu biết  (βροτν δόξα)[31] sự vật.
Dẫn nhập Bài Thơ của Parménide cũng là một định nghịa về ý nghĩa thi ca trong tư tưởng các thánh hiền xưa. Trong giai đoạn tư tưởng thi ca của Platon, đặc biệt trongĐối thoại Ion, ta đọc lại được nội dung những câu thơ nhập đề của Bài ThơParménide qua lối diễn tả hùng hồn của Socrate :
« Không phải do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người ta thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ là một bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian các thi sĩ !… »[32].

Trong Sách Luận Ngữ (XVI, 13)Đức Khổng, người đương thời với các nhà tư tưởng Cổ Hy lạp cũng nói rất cô động thế nầy để dạy con là Bá Ngư : « Bất học Thi, vô dĩ ngôn (Không học Thi, không lấy gì để nói.»
Nhưng Thi ca nói về nội dung nào đây mà con người cần phải được Thần đưa qua « bờ bên kia » mới lên tiếng và nói được ? Không phải con người đã có thể biết được sự vật và gọi tên, phân biệt được vật nầy với vật kia hay sao ?
Kỳ thực, khi nói đến Thi ca, các vị thánh hiền, các Kinh Sách các tôn giáo…, hẳn không phải ghi lại lời ca ví von diễn tả vũ trụ hay một xúc động bất kỳ nào đó của con người. Nhưng Thần Thi chỉ cảm hứng một nội dung duy nhất, đó là ý nghĩa nhân tính. Trong bối cảnh nầy, Bài Thơ của Parménide cũng chỉ ghi lại cảm hứng độc nhất là mặc khải ý nghĩa nhân tính nầy.  Và những từ ngữ chỉ đạo như tư tưởng (νοεν), nguyên tính(εναι)[33] trong Bài Thơ cũng chỉ trực tiếp nói đến nhân tính mà thôi, chứ không hề mô tả nguyên lý hay bản thể nào của các sự vật. Con người giác ngộ (εδότα φτα), tư tưởng (νοεν), nguyên tính (εναι) cũng là nhân tính duy nhất, nhân tính trong mối tương giao với Kẻ Khác, nhân tính được soi sáng bởi Mặt Trời bên kia bờ. Vì thế, những thành ngữ ấy không có nội dung nào khác hơn Λόγος của Héraclite, hayГάμος của Eschyle và Sophocle.
Nhưng con người cũng là con người đang được soi dọi bởi ánh sáng hiểu biết (δόξα) của bên nầy bờ[34] và đang ở trong ‘Ngày Hôm Nay’ của người mất đi hơi thở Thần thánh[35] như lời thú nhận của Oedipe trong bản Kịch của Sophocle. Dưới ánh sáng nầy, với thước đo của hiểu biết con người để tự định nghĩa nhân tính, mỗi người đã đẻ sinh ra vô số lý lịch[36] sai lạc về mình. Và những con đường phát xuất từ những nhân tính giả tạo nầy là vòng quay của bến mê : « Tất cả = βροτο εδότεζ οδέν những con người ở trong cõi chết đó, những con người không ngộ được ánh sáng bờ bên kia) không miễn trừ ai, con đường họ đi là bến mê không lối thoát - πάντων δπαλίντροπός στι κέλευθος.»[37].
Kỳ cùng, Văn hóa, Đạo lý hay Tư tưởng cũng chỉ cô động trong một nội dung duy nhất là tham gia cuộc chiến làm người, – cuộc chiến phát xuất từ hai thân phận luôn gắn liền với nhân tính-, cuộc chiến[38] giữa nguyên tính (εναι – l’être), một lý lịch người được Thần (Δαίμονος)[39] soi sáng và thổi hơi vào ban sự sống (εδότα φτα) và một lý lịch người có khả năng làm ra muôn biến thể dị dạng, muôn ảo tưởng (μήέόντα – les non-êtres) về nhân tính theo ý thích và theo khả năng đo lường  sự vật của mình.
6. Tư tưởng Socrate
Cuộc chiến làm người mà các nhà Bi Kịch, các nhà tư tưởng Héraclite, Parménide nêu lên trong các kịch bản, trong thi ca…, thì với Socrate, nó lại được làm chứng, không những qua lời giảng dạy mà vị hiền nhân nầy chia sẻ, nhưng qua chính cuộc sống và cái chết của ông. Socrate là hiện thân của một Prométhée (xem Prométhée bị trói của Eschyle) bị cột buộc vào hai thân thế, vừa là con của Gaia (Đất) tự nhận là Thémis (Công Lý)[40] lại vừa là con của Thémis. Socrate ấy cũng là kẻ tham gia cuộc chiến giữa hai lý lịch Oedipe. Một bên là Oedipe « đo đất », lấy chính Mẹ mình là Jocaste làm vợ và đẻ những ý hệ, những ảo tưởng về nhân tính, những mẫu người dị dạng ; và một bên là Oedipe nhận ra Thời riêng của con người, nối lại với Khổ nơi Mẹ Jocaste là hiện thân Nguồn Nhớ Laios, Cha nguyên thủy dấu mặt nhưng ban cho Oedipe lý lịch căn nguyên.
Cuộc chiến đó, không những là cuộc chiến mà Socrate đã chứng nghiệm nơi bản thân như lời tự thú của ông trong Lời biện hộ[41] trước tòa án Nhã Điển; nhưng hơn thế nữa, nó còn phản ảnh nơi vận mệnh văn hóa nhân loại qua hai lối trình bày lý lịch Socrate mâu thuẩn nhau xuyên qua những tài liệu viết về ông. Hai lý lịch mâu thuẩn đó không phải do những kẻ đối đầu với Socrate xuyên tạc và bày chuyện viết ra, nhưng do chính Platon, người đồ đệ và cũng là chứng nhân trực tiếp và đáng tin cậy nhất của Socrate, ghi lại.
Thật thế, trong các tác phẩm vào giai đoạn đầu của Platon, chúng ta có một thánh hiền Socrate thuộc giòng tư tưởng bi kịch và thi ca, một Socrate đối đầu với những người đương thời tự cho mình tài trí, hiểu biết (sophistes) như Protagoras, Gorgias, Hippias. Nhưng trong các tác phẩm vào giai đoạn hai, chúng ta lại chứng kiến một Socrate đồng mâm, đồng chiếu, đồng thanh với những kẻ đối đầu lên án ông[42], một Socrate truy tìm nguyên lý[43] hiểu biết về sự vật để từ đó định nghĩa lý lịch con người.

Trong cuốn Biện hộ Socrate, một trong những tác phẩm đầu tay của Platon, Socrate định nghĩa hết sức rõ : Đạo lý, khôn ngoan mà ông truyền bá chỉ là « hiểu biết về người - νθρωπον σοφία – sagesse d’homme », và chỉ giới hạn trong nội dung đó. Nói cách khác, đối với văn hóa và tư tưởng, nếu không đặt nhân tính làm nội dung duy nhất, thì theo Socrate chúng ta đang nói về một kiến thức nào đó chứng không nói đến văn hóa :
« Xin quí vị ý thức điều nầy : lời tôi sắp nói đây hoàn toàn là sự thật. Hởi người Nhã điển, người ta đồn tôi là người hiểu biết. Nhưng, thật sự thì biết được điều gì ?  (Tôi xin trả lời) đây là sự khôn ngoan, hiểu biết liên quan đến nhân tính – νθρωπον σοφία»[44].

Như thế, sự kiện ông đối đầu với các kẻ tự nhận là khôn ngoan không hề có nghĩa là ông chủ trương ngu dân, chống lại việc cổ súy các kiến thức về sự vật và các tiến bộ khác của văn minh. Thật thế, qua những trang sách của Platon, ai cũng thấy Socrate là người có nhiều kiến thức, tranh luận sắc bén khi đối diện với các đối thủ của mình. Và Socrate ấy cũng không giả hình khi khen ngợi tài ba của các đối thủ chống lại ông.
Kỳ thực, các kẻ tự nhận là khôn ngoan được nêu lên như là đối thủ không phải vì kiến thức của họ, nhưng vì họ đã lấy nguyên lý và thước tấc đo lường sự vật (le principe d’identité des choses et aussi le principe de la connaissance de ces choses) để định nghĩa lý lịch con người (l’identité de l’homme – ou l’humanité). Câu châm ngôn của Protagoras là một tiểu biểu : « Mỗi người trong chúng ta đều là thước đo mọi vật»[45].Châm ngôn ấy tiền kiến con người là một bản thể, một vật trong muôn vật của vũ trụ, con người chỉ biết dùng thước đo mọi vật (đo đất) để đo chính nhân tính mình và dưới ánh sáng đo lường đó. Trước tòa án Nhã điển, Socrate nói về sự thái hóa nhân tính do lối đo lường nầy của những kẻ tự nhận là khôn ngoan như sau :
«  Hỡi công dân thành Nhã điển, tôi nghĩ rằng lỗi của những người (tự nhận là) thi sĩ cũng là lỗi của những nhà có đầy kiến thức tài ba chuyên môn (excellents professionnels) ở điểm nầy : họ dựa trên tài ba chuyên môn của họ rồi cho rằng họ có thể có sự khôn ngoan hoàn bị, ngay cả trong những vấn đề quan trọng nhất. Hơn thế nữa, cao vọng ấy lại che lấp không cho họ tiếp cận được khôn ngoan khác. Cũng vì thế, tôi tự xét lại mình dưới ánh sáng của sấm ngôn để quyết trung thành với đường lối mình đang đi, và không chạy theo khôn ngoan của những người mà tôi vừa nhắc đến, và cũng không u mê trong con đường lạc lầm của họ. »[46]
Và để phân biệt đạo lý của nhân tính (νθρωπον σοφί) với sự hiểu biết quá lạm về nhân tính của những kẻ tự nhận là khôn ngoan, Socrate khiêm tốn trình bày như sau :
« Về đạo lý, nếu tôi có đôi chút, và về nét đặc trưng của đạo lý ấy, người chứng cho tôi sẽ là Thần ở đền Delphes »[47].
Trong Đối thoại Le ProtagorasPlaton không những lưu lại cho hậu thế một chứng cứ cổ xưa nhất, hùng hồn nhất về văn hóa, tư tưởng Cổ Hy lạp, mà xuyên qua đó Platon còn định vị Socrate  nằm trong truyền thống liên tục của giòng văn hóa nầy. Nền văn hóa nầy có nét đặc trưng là cảm hứng được Λόγος, Lời của « Thần ở đền Delphes », « Lời bên kia bờ » đến và gọi tên con người ở « ngôi thứ hai », – « Nầy người (anh, chị, ông, bà), hãy biết mình ! » và « Đừng quá lạm »- :
 « Trong số những người ấy có Thalès thành Milet, Pittacos thành Mytilène, Bias thành Priène, ngài Solon của chúng ta, Cléobule thành Lindos, Myson thành Khênè, và vị thứ bảy trong họ, như người ta nói, là Chilon thành Lacédémone. Tất cả những vị nầy đều yêu thích văn hóa Lacédémone. Đạo lý của họ giống nhau; người ta biết đến họ qua những câu  ngắn và dễ nhớ mà mỗi vị cảm ứng ra;  đến ngày tụ họp, họ dâng những câu nầy làm của lễ đầu mùa lên Apollon ở đền Delphes, nơi có ghi khắc những lời sấm mà mọi người đều biết: ‘Nầy người (anh, chị, ông, bà), hãy biết mình ! ‘ và  ‘Đừng quá lạm’ »[48].

Nguồn suối chung của văn hóa Cổ Hy lạp, theo chứng cớ của Platon ở đây, hẳn không phải là truy tìm nguyên lý vũ trụ hay diễn tả bản chất quỉ thần, nhưng là lắng nghe Lời từ « bên kia bờ » vọng lại mặc khải nhân tính trong tương giao hàm ngụ trong chữ « σεαυτόν, TOI, YOU, NÀY NGƯƠI ! », ở ngôi thứ hai trong sấm ngôn « γνθι σεαυτόν ». Sấm ngôn phát sinh từ ngôi thứ nhất, Ngôi Vị Siêu Việt ẩn kín (mà Socrate thường dùng chữ Δαίμων để gợi ý), Nguồn của Lời nói đến gọi con người, nối kết tương giao với con người và nâng con người lên đồng sàng với mình trong một « hôn nhân mới » (một Гάμος thần thánh như lối nói của của Eschyle và Sophocle).
Vì lý lịch con người là tương giao với Kẻ Khác ẩn kín, nên từ sức sống của tương giao nầy, Socrate phải hoàn thành nhân tính mình bằng mối tương thông với những ai khác ông gặp gỡ. Hai mối tương giao với Thần và với người nầy gắn bó với nhau trong tư tưởng Socrate, và được chứng thực trong cuộc sống hằng ngày của ông. Gặp Kẻ Khác ẩn kín để tiếp nhận thần lực, gặp gỡ những con người với nhau nhau đễ cùng thức tỉnh nhau về lối đi không lối thoát mà con người cùng đang đi, để cùng đối diện với ‘hố thẳm’ phân cách giữa hai thân phận, hai mối tương giao mâu thuẩn  gắn liền với nhân tính:
« Thưa quí Tòa, mỗi lần tôi đặt kẻ khác trước sự thách đố, người tham dự nghĩ là tôi hẳn phải thông thạo về những nội dung tôi thách đố họ; nhưng thật ra Đạo lý nầy là ơn phúc của Thần, là sấm ngôn đến nói cho chúng ta hay rằng sự hiểu biết của con người không mấy giá trị hoặc đúng hơn là không có giá trị gì cả »[49].
Nhưng trong nháy mắt, sấm ngôn : ‘Nầy người (anh, chị, ông, bà), hãy biết mình ! »vốn mặc khải nhân tính trong mối tương giao với Kẻ Khác bất ngờ đến với mình, và với những kẻ khác mà mình gặp gỡ, thì nay sấm ngôn ấy bị trượt ngả để được hiểu là châm ngôn triết học «mình tự biết mình, do chính mình – se connaitre soi-même ».Trong tiền kiến của châm ngôn « mình tự biết mình » nầy, nhân tính nay lại được xây dựng trên chân lý có tên là nguyên lý đồng nhất (principe d’identité) còn gọi là tự thân (le Soi), nguyên lý được Platon dần hồi khai thác và hệ thống hóa vào giai đoạn hai của các tác phẩm ông viết, đặc biệt trong các đối thoại Le Parménide, Le Sophiste.
Trực giác về sự sống của nhân tính nơi tương giao thần thánh với Kẻ Khác và đến từ Kẻ Khác, tương giao được cảm nhận từ âm vang nơi tên gọi « Nầy người (anh, chị, ông, bà) » ở ngôi thứ hai, – tương giao mà Héraclite gọi là Λόγος, các nhà Bi kịch Hy lạp gọi là Гάμος- , nay bị giản lược thành một lối hiểu biết ‘tự thân’ dựa trên nguyên tắc đồng nhất, vốn là nguyên tắc của hiểu biết giúp con người làm chủ sự vật. Bước trật chân ấy thực ra Socrate đã cảnh giác mạnh mẽ như sau trong Đối thoại Le Charmide của Platon[50] :
«Trong trường hợp nầy[51], người có sự khôn ngoan lại là người một mình tự mình biết mình; một mình mình xét định được cái gì mình biết và cái gì mình không biết; chỉ do tự mình mình, mình biết kẻ khác để xét xem kẻ khác biết gì, nghĩ gì, và đồng thời biết kẻ khác cũng có khả năng như mình. Không ai ngoài mình có khả năng nầyngoài nỗ lực của chỉ chính mình! Đó chính là điều gọi là có được sự khôn ngoan, là hiểu biết chân thật. Và như thế, ‘tự mình biết mình’ là do mình, mình biết điều mình biết và điều mình không biết »[52].
Nay con người hiểu biết là vị vua một cõi (xem Oedipe, vua một cõi ở thành Thèbes trong Oedipe-Vua của Sophocle). Ai Khác (Thần) và mọi người khác đều bị (giết) biến thể thành những ý niệm, những đối tương dưới quyền năng hiểu biết mà mình là chủ thể.
Dưới ánh sáng « đến từ bờ bên kia »,  – ánh sáng đến từ mối tương giao nâng con người lên ngôi thứ hai,  kẻ được Thần gọi là anh chị, ông bà…  để đồng sàng -, người khiêm tốn Socrate đã giúp « người tự nhận là khôn ngoan » Critias đối diện với bế tắc của con đường « tự mình biết mình », con đường tiền kiến « tự thân (le Soi) là chân lý ». Nhưng những lời cảnh giác trong Đối thoại Le Charmide đã bị ánh sáng của một homo sapiens Oedipe, mẫu mực của truyền thống tư tưởng triết học, che mờ.
Thật thế, không phải câu nói của Hegel: « ý thức tự thân là quê hương của chân lý»[53] vốn là mẫu mực cho tư tưởng truyền thống triết học hay sao?
Nhân danh Socrate là thầy, truyền thống văn hóa homo sapiens đã lên án Socrate chết thêm một lần nữa.
Socrate chứng nhân cho cuộc chiến thần thánh giữa một bên nhân tính chân thật nơi tương giao với Kẻ Khác và những người khác, và bên kia là nhân tính lầm lạc nơi ‘tự thân’ (le Soi), nay trở thành thầy Socrate chỉ dạy con đường văn hóa xuyên qua cuộc vật lộn với vũ trụ và thời gian tự nhiên nhằm chế ngự thế giới khả giác và hữu hình ấy, để « siêu thoát ! » trở thành một bản tính cô đơn, tự do, tự tại, nơi thế giới thường hằng và khả tri.
Thực ra, vào thời Bi kịch Hy lạp, đặc biệt vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, còn gọi là thế kỷ của Péricles, Nhã điển đã là một thành phố văn minh cao độ, so với các cộng đồng con người trên thế giới. Trong cuốn Biện hộ Socrate, Platon đã cho chúng ta thấy rõ sự kiện lịch sử đó[54]. Nhưng các nhà tư tưởng Bi kịch, cũng như các nhà tư tưởng Héraclite, Parménide, Socrate… không hề cho chúng ta thấy họ đã từng có sáng kiến kỹ thuật, phát minh nghệ thuật nào để tô bồi cho sinh hoạt xã hội văn minh nầy. Và họ cũng không hề làm chứng nhân để phát ngôn cho nền dân chủ Thành Nhã-điển, hoặc ca tụng hay lên án một hình thức tổ chức xã hội nào liên quan. Không phải họ không lưu ý đến thế thái nhân tình, không phải họ trốn tránh nghĩa vụ trau dồi kiến thức, làm cha gia đình, làm người công dân…,  ngược lại là khác. Nhưng sứ mạng văn hóa mà họ cảm thấy có bổn phận thực thi, và nội dung duy nhất của văn hóa mà họ cảm hứng được, đã buộc họ cảnh giác nguy cơ nghiêm trọng hơn cả : đó là cái chết của nhân tính[55]và nêu lên điều đáng phải làm trước tiên : đó là ý thức nhân tính và hoàn thành nhân tính của mình.
Và sứ mạng đó, nội dung đó đối với họ được gọi là Tư tưởng, Đạo lý hay Văn hóa.
Socrate đã sống và chết cho sứ mạng nầy.
Đồng thanh với các nhà tư tưởng Cổ Hy lạp khác, Sophocle lại nhắc nhở nguy cơ gắn liền với thân phận con người bất cứ ở đâu và vào thời nào, đó là nhân tính bị hiểu lầmtự thân (le Soi).  Nhân tính chết vì chìm đắm trong ‘tự thân’ chứ không phải bị tiêu vong vì « sinh lão bịnh tử »  hoặc bất cứ hiện tượng nào trước mắt. Con nhân-sư  (Sphinx)được truyền thống triết học xem là tượng trưng cho tiếng ca khải hoàn vào buổi khai sinh văn hóa[56], kỳ thực đối với các vị thánh hiền, đó chính là nguy cơ tối hậu che khuất dấu tích tìm về nhân tính linh ư vạn vật của con người :
Créon : «  Con nhân-sư ấy với tiếng tru tréo phỉnh phờ đã luôn buộc chúng tôi quên mất những gì ẩn kín siêu việt, vượt lên trí năng, để chỉ nhìn nguy cơ đằng trước (nhìn với mắt người trần)-  ποικιλδς Σφγξ τ πρς ποσ σκοπεν μεθέντας μς τφανπροσήγετο.  ποικιλδς Σφγξ τ πρς ποσ σκοπεν μεθέντας μς τφανπροσήγετο. »[57]



[1] Cf. NGUYỄN DU, Kiều : « Đã mang lấy nghiệp vào thân » câu 3249 ( theo bản văn được Nguyễn Văn Vĩnh chép lại, trong Kim Vân Kiều, Hà nội, NXB. Alexandre de Rhodes, 1943.)
[2] Chỉ cần lược kê những chủ thuyết tự xưng là nhân bản, những định nghĩa đa biệt và mâu thuẩn nhau về nhân tính do những triết gia đưa ra, thì chúng ta cũng ý thức được tình trạng u mê lạc lầm của thân phận con người chúng ta.
[3] Sách Đạo Đức Kinh, Ch. 2.  gọi nghiệp sai lầm căn nguyên nầy bằng thành ngữ thiên hạ.
[4] Jean-Pierre VERNANT et Pierre VIDAL-NAQUET, Mythe et tragédie en Grèceancienne, édit. La Découverte, Paris, 1989, pp. 7, 14.  «On peut soutenir … que le genre tragique fait son apparition à la fin du VIè siècle lorsque le langage du mythe cesse d’être en prise sur le réel politique de la cité…Dans le cadre nouveau du jeu tragique, le héros a cessé d’être un modèle; il est devenu, pour lui-même et pour les autres, un problème… »
[5] Ibid. p. 31. « Dans la perspective tragique, l’homme et l’action humaine se profilent, non comme des réalités qu’on pourrait définir ou décrire, mais comme des problèmes. Ils se présentent comme des énigmes dont le double sens ne peut jamais être fixé ni épuisé. ». 
[6] Xem ESCHYLE, Prométhée bị trói, 197-241 ; 476-506.
[7]Sđd, 248; 250 : « Prométhée –  « Vâng, ta đã giải thoát con người khỏi sợ chết. » … « Ta đã gieo vào lòng họ những ước mơ hão huyền ».
[8] Sđd, 647-653 : « Hỡi nàng trinh nữ đầy diễm phúc, tại sao Nàng còn giữ trinh, khi Nàng có thể có được vị hôn phu cao cả hơn mọi hôn phu ? Siêu Việt (Zeus) cháy lửa yêu Nàng, Ngài vì Tình nồng nàn luôn hướng về Nàng và muốn hưởng cuộc sống hôn nhân bên Nàng : hỡi người trinh nữ, hãy coi chừng, đừng nên cự tuyệt mối tương liên(Гάμοςnầy với Siêu Việt (Zeus)… ».
[9] ESCHYLE, Prométhée bị trói, 902-905 : «Khi Trời Cao đoái đến  tôi, yêu thương tôi, thì tôi không làm sao tránh né được ! Đây là cuộc chiến thần thánh (ἀπόλεμος ὅδε γ´ πόλεμος)tài năng sức lực con người của tôi làm sao đương đầu đây ! ».
[10] Xem SOPHOCLE, Oedipe-Vua, câu 132. Oedipe: «Tôi nắm vụ việc lại từ đầu vàtôi rọi soi ánh sáng  (γ φαν) ».
[11] Tên bản bi kịch là Οδίπoυς τύραννoς -  Oedipe-Vua ; τύραννoς nghĩa là nhà độc tài.
[12] Xem Sđd. 1360-1361, Oedipe: « Nay (ở bên nầy bờ) tôi là kẻ mất thần, con của cha mẹ vô thần, lấy chính mẹ sinh ra mình để đẻ ra vô số con cái vô luân Νν δ´θεος μέν εμ´, νοσίων δ πας, μογενς δ´ φ´ ν ατς φυν τάλας.».
[13] Tư Tưởng Bi Kịch Hy lạp gọi là χρόνος, Thời bên kia bờ thời gian vũ trụ, Thời được gọi là Nguồn Khổ, làm cho con người luôn hướng về Siêu Việt và đưa cao con người vượt lên trên vũ trụ tự nhiên. Lão Tử, ch. XV, bắt đầu bằng « Cổ chi » (Đời xưa), còn Khổng thì nói đến Thời Nghiêu Thuấn, đúng là Thời (χρόνος) ẩn dấu và là thời riêng của nhân tính, thời vượt lên trên thời gian vũ trụ của tư tưởng Cổ Hy lạp.
[14] Những nhân tính mà ngày nay ta thường gọi tên là những chủ thuyết nhân bản,những ý hệ đa biệt đang phát sinh ngày mỗi nhiều trên thế giới.
[15] Xem Sđd. 713-714. Jocaste : «…Đứa bé khi sinh ra chưa đầy ba ngày thì Laios đã ghi khắc vết thương đau ở chân và quăng trên một ngọn đồi hoang vu ».
[16] Xem Sđd. 1245-1248. Sứ giả : « Nàng (Jocaste) kêu đến Laios đã khuất từ muôn thủa.  Nàng gọi tên những người con mà Laios đã cho Nàng, và cũng chính những người con nầy mà Laios đã bị giết, để tiếp đó chúng ép Nàng gian díu với chúng và sinh cho chúng một hậu duệ dị dạng kinh hoàng.».
[17] Xem Sđd. 1213-1215: Ca đoàn : « … Thời (Κρόνοζ) thấy rõ mọi sự đã tố giác tội ác người, dù người không muốn nghe. Thời ấy lên án hôn nhân quái dị (γαμον γάμον) từ đó đã bao đời sinh ra một người cha (Oedipe) và vô số ngươi con. φηρέ ς´ κονθ´  πάνθ´ ρν χρόνος·  δικάζει τν γαμον γάμον πάλαι τεκνοντα κατεκνούμενον. ».
[18] SOPHOCLE, Oedipe-Vua, câu  879-880.
[19] Trong cuốn Rhétorique Г 5, 1047 b của Aristote, người ta đọc được đoạn văn nầy : « Thật thế, việc chấm câu để đọc Héraclite quả là vấn đề, vì khó biết chữ ông dùng liên quan đến ý đi trước hay ý đi sau trong câu. Chẳng hạn, khi bắt đầu tác phẩm của mình, Héraclite viết : « (τοῦ δὲ) λόγου τοῦδ᾽ ἐόντος (ἀεὶ) ἀξύνετοι γίγνονται ἄνθρωποι)’ » «Λόγος (Lý, Tương giao) người ta / mải mải / không thể biết được ». Ở đây, ta không biết / mải mải (ε)  / gắn liền với nội dung nào, để chấm câu cho đúng ».
[20] Héraclite, Parménide, Socrate được truyền thống triết học xem là ba cột trụ. Jean BEAUFRET, trong biên khảo Dialogue avec Heidegger, tr. 38, đã viết : « Avec Héraclite et Parménide, c’est la fondation même de la pensée occidentale qui s’accomplit. » 
[21] Xem ý nghĩa chữ ‘Vua’trong tựa đề bi  kịch Oedipe-Vua của Sophocle. Và trongTây Du Ký, con khỉ hiểu biết cầm cái thước đo đất,  có tên là Tề Thiên (bằng Trời)
[22] Xem ARISTOTE, Physique I 184 a – 192 b ;  Métaphysique A 1- A6.
[23] Xem PLATON, Le Grand Hippias, 289 a.
[24] Xem Héraclite đoạn văn 64 : «  Sấm sét điều hành tất cả - τ δ πντα οακίζει κεραυνός. »
[25]Xem Héraclite đoạn văn 119 : « Nét riêng của con người là thần -  θος νθρώπδαίμων. ».
[26] Không có mâu thuẩn giữa Λόγος đến từ Trời và khả năng lý trí, xét từ nội dung riêng của chúng. Nhưng trong tư tưởng của các nhà tư tưởng Cổ Hy lạp sở dĩ có mâu thuẩn là vì tư tưởng chỉ nhằm nói đến thân phận con người. Và trong khuôn khổ ý nghĩa nhân tính, con người tự căn mang nghiệp lầm khi tiền kiến khả năng hiểu biết (đo đất) là Λόγος. Do đó hai tương giao nầy lại bị đặt vào thế tương tranh loại trừ nhau.
[27] Xem Héraclite đoạn 53 : Cuộc chiến là cha mọi người, là vua tất cả ; nó định cho những người nầy là thần, những kẻ khác là người; nó đánh giá những người nầy là nô lệ, những kẻ khác là tự do -  Πόλεμος πάντων μν πατήρ στι, πάντων δ βασιλεύς, κα τος μν θεος δειξε τος δ νθρώπους, τος μν δούλους ποίησε τος δλευθέρους. ». (Hippolyte, Réfutation des toutes les hérésies, IX, 9, 4.). Chữ « Πόλεμος »  của Héraclite cùng nghĩa với  « ἀπόλεμος ὅδε γ´  πόλεμος » trongProméthée bị trói, 902-905 của ESCHYLE (xem chú thích  10).
[28] Dĩ nhiên Thần Thánh và con người cũng nằm trong vùng đất của mọi vật đó, vì thế trong tư tưởng triết học, câu hỏi về Thần, về người và bất cứ về vật gì cũng bắt đầu bằng « cái gì ?» : Thần là cái gì ? Người là cái gì ? Cái bàn là cái gì ?
[29] PARMÉNIDE, Bài Thơ, I.9.
[30] Sđd, I.3.
[31] Sđd, I.30.
[32] PLATON, Ion, 534 c-d;  534 e..
[33] PARMÉNIDE, Bài Thơ, III: « Vì tư tưởng và nguyên tính là một nội dung – τ γρ ατ νοεν στίν τε κα εναι. ».
[34] Xem Sđd. VI 4- : « U mê của con người, những kẻ lạc lầm, chúng là kẻ vô Tri – νδ βροτο εδότες οδέν πλάττονται, δίκρανοι. ».
[35] Xem SOPHOCLE, Œdipe-Vua, câu 1360: «…  Nay, tôi là kẻ mất Thần Νν δ´θεος μέν εμ´.».
[36] Xem PARMÉNIDE, Bài Thơ, VII, 1: μ ἐόντα (les-non-êtres).
[37]Sđd, VI, 9.
[38] Xem Sđd. VII, 1: « Không bao giờ được quyền giản lược Nguyên Tính với những ảo tưởng - Ο γρ μήποτε τοτο δαμ εναι μ ἐόντα. ».
[39] Xem Sđd, I, 1-3: «.Con người giác ngộ (εδότα φτα) được soi dọi bởi Thần,được dẫn đi trên con đường của Thần (πποι ταί με φέρουσινσον τ‘ π θυμς κάνοι,πέμπονπεί μ‘ ς δν βσαν πολύφημον γουσαι δαίμονος κατ πάντ‘ στηφέρει εδότα φτα·) ».
[40] ESCHYLE, Prométhée enchainé, câu 209-210: « Mẹ tôi dưới hai tên gọi Thémis và Gaia… – μο δ μήτηρ οχ παξ μόνον Θέμις κα Γαα …. ».  Đây là thú nhận của một Prométhée, tên ăn trộm lửa Trời.
[41] PLATON, Biện hộ Socrate, 31 c, d: «Nguyên do (của con đường đạo lý của tôi) phát xuất từ điều mà các người đã nghe tôi nói nhiều lần vào nhiều lúc khác nhau: đó là có cái gì đó linh thiêng và thần thánh đến với tôi, một điều mà Mélètos bắt chước một tác giả hài kịch từng nêu lên để tố giác tôi. Những việc lạ lùng như thế tôi đã từng gặp lúc tôi còn bé: có một lời nói bên trong tôi, và mỗi lần như thế, thì tiếng nói đó ngăn không cho tôi làm điều tôi có thề sắp làm… Tôi nghĩ đây thật đúng là một sự xung khắc may mắn. ».
[42] Chẳng hạn, trong cuốn Bữa tiệc 192 e – 193 a, Aristophane, người từng kết án tư tưởng của Socrate, cho rằng  lời dạy của Socrate là hoang đường, thì nay là trở thành một thi nhân tiên tri đem lại cảm hứng cho tư tưởng của chính Socrate.
[43] Đặc biệt xem các tác phẩm Le Phèdre, Le Cratyle, Le Théétète, Le Parménide, Le  Sophiste.
[44] PLATON, Biện hộ Socrate, 20 d.
[45] PLATON, Théétète 166 d.
[46] PLATON, Biện hộ Socrate 22 d-e.
[47] Sđd, 20 e.
[48] PLATON, Le Protagoras 343 b.
[49] PLATON,  Biện hộ Socrate 23 a.
[50] Đối thoại nầy nằm trong thời kỳ đầu của các tác phẩm Platon.
[51] Trường hợp nhân tính là tự thân (le soi) theo giải thích của nhà tự cho mình là khôn ngoan (sophiste) Critias.
[52] PLATON, Le Charmide, 167 a.
 [53] Để nhận ra bước trật chân giản lược sấm ngôn mặc khải nhân tính « Nầy anh, nầy chị…  hãy ý thức nhân tính » thành châm ngôn « tự mình biết mình » ngay trong tiến trình đổi thay đầy mâu thuẩn của tư tưởng Platon, và trong văn hóa Hy lạp, ta có thể đọc những nhận định sau đây của Georges GUSDORF, trong khảo luận có tựa đề là Les Origines des sciences humaines, Payot, Paris, 1985, tr. 24 ; 29 : « La passage de la préhistoire à l’histoire de la culture se réalise lorsque la conscience pré-réfléchie cède la place à une organisation réfléchie de la connaissance .. L’affirmation sophiste peut être résumée par la formule de Protagoras :’ l’homme est la mesure de toutes choses’, dont le précepte socratique dégage la conséquence : ‘connais-toi toi-même’. Autrement dit, selon la parole admirable de Hegel : ‘la conscience de soi est la terre natale de la vérité.  Toute affirmation de l’homme est en dernière analyse une affirmation humaine. »
[54] PLATON, Biện hộ Socrate 29 d-e :« Hởi bạn là công dân thành Nhã điển, là người văn minh hơn cả, là một công dân của thành phố hùng mạnh nhất, của một thành phố nỗi danh về kiến thức và giàu có, bạn không thấy hổ ngươi vì mải mê chạy theo của cải, tiếng tăm cũng như các danh vọng nầy khác, trong lúc đó bạn không hề lo, không hề biết đến tư tưởng, chân lý và nhân tính (linh hồn) của bạn .»
[55] Xem câu thơ bất hủ của thi hào Hoelderlin : « Nhưng nguy cơ ở nơi nao, thì ở đấy trào dâng nguồn cứu độ »  (Hoelderlin, IV, 190).
[56] Để thấy rõ hố thẳm ngăn cách văn hóa Cổ Hy Lạp và sự kiện được gọi là phép lạ Hy lạp khai sinh tư tưởng triết học ta có thể đối chiếu câu thơ về tiếng hát phỉnh gạt của con Nhân-sư (Σφὶγξ) trong bản kịch Oedipe-Vua của Sophocle, với lời ca tụng con Nhân-sư ấy qua ngói viết của các triết gia.
Trong một chương mang tựa đề « La naissance de la philosophie » của biên khảoĐối thoại với Heidegger, Jean Beaufret đã mô tả việc khai sinh triết học liên quan đến tiếng hát khải hoàn của con Nhân-sư  như  sau :
[Cette percée de l’homme dans le monde est-elle cependant spécifiquement grecque ? L’homme n’y a-t-il pas percé un peu partout, avant la Grèce et en dehors d’elle ? Ou faut-il dire qu’il a autrement et peut-être mieux percé en Grèce que partout ailleurs ? C’était la pensée de Hegel, dans le contraste qu’il établissait, au cours de ses leçons sur l’Esthétique, entre la Grèce et l’Egypte, où la percée de l’homme n’avait encore donnée lieu qu’à l’apparition de l’énigme, symbolisée par le Sphinx. Dans le mythe grec au contraire, ajoute-t-il, le Sphinx est lui-même interprété comme le monstre posant des  énigmes :
‘…on sait la question énigmatique qu’il avait posée : quel est l’animal qui marche le matin sur quatre pattes, à midi sur deux, et sur trois le soir. Oedipe trouva le mot de cette  énigme en disant que c’était l’homme, et  précipita le Sphinx au bas du rocher.
A la réponse d’Oedipe, fait écho le connais-toi, que Socrate, bien plus tard, lisait méditativement sur l’inscription de Delphes…. Au lieu de : «  porte-toi bien » le dieu dit de plus haut : « Sache te connaitre » et par-là « deviens qui tu es » à savoir un homme…. Si l’homme est l’homme, c’est donc par cette énigmatique «philosophie ». La question : qu’est-ce que l’homme ? nous renvoie donc à la question : qu’est-ce que la philosophie ? L’homme ne perce vraiment comme homme que par la percée, en lui, de la philosophie ! »]. Jean BEAUFRET, Dialogue avec Heidegger, édit. De Minuit, Paris, 1973pp. 21-22.
[57] SOPHOCLE, Oedipe-Vua, câu 130.

Nguyễn Đăng Trúc