Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

VNTM 2012: Một đám cưới và một đống đám ma



Vietnam's Next Top Model đã từng tìm kiếm và đào tạo ra rất nhiều những người mẫu chuyên nghiệp, và họ có đủ khả năng, sự tự tin để sải bước trên sàn catwalk của thế giới. Tuy nhiên, những chiêu trò lố bịch, PR thái quá và cả những điều giả tạo đang làm ảnh hưởng đến thiện cảm của khán giả dành cho chương trình.
Chiêu trò có làm nên một VNTM chuyên nghiệp?
Vừa qua, VNTM 2012 phát sóng tập 6 với rất nhiều cảm xúc trái chiều đối với người xem truyền hình. Giám khảo Nam Trung vào vai một “bà thím” nội trợ quê mùa với thông điệp nhắn gửi tới các thí sinh. Đó là việc thay đổi ngoại hình có thể biến những người mẫu thành bất kì ai, đặc biệt khi sự thay đổi đó để tìm ra được vẻ ngoài phù hợp nhất với cá tính của mỗi người. Từ đó định hình hình ảnh, phong cách của mỗi thí sinh trên sàn diễn, cũng như trước những người mẫu chuyên nghiệp khác. Tuy nhiên, hiệu ứng của nó lại không được như ý. Nhìn cách tạo hình của Nam Trung, không ít khán giả cũng như những người “có nghề” đều dễ dàng đưa ra nhận xét rằng, sự thái quá này đã đem đến sự kệch cỡm và khó chịu cho người xem. Nói đúng ra, đây là một sự sáng tạo xứng danh… thảm họa. Tuy nhiên, nếu xâu chuỗi lại việc Nam Trung đã từng mạnh bạo mặc váy như những người đàn ông… Scotland thì nó cũng không hẳn là chuyện lạ.
Giám khảo Nam Trung vào vai một “bà thím” nội trợ quê mùa
Quá nhiều nước mắt khiến khán giả bội thực
Những buổi phát sóng của VNTM 2012 như ngập trong nước mắt bởi những tiếng khóc ỉ ôi, những đôi mắt mọng nước. Mục tiêu của VNTM là đào tạo ra những người mẫu chuyên nghiệp, mạnh mẽ và có cá tính. Vậy hà cớ gì, họ lại khuyến khích các thí sinh khóc nhiều đến thế? Được giám khảo khen hay chê: Khóc. Bị tịch thu điện thoại: Khóc. Bị nhắc nhở vì chưa thay kịp đồ: Khóc...
Chưa kể dường như VNTM đang muốn lấy lòng người xem bằng nước mắt của thí sinh, trong tập chọn 15 thí sinh vào ngôi nhà chung, BGK còn cố tình tạo nên những tình huống gây khóc cho thí sinh bằng việc làm thiếu tính nhân văn: công bố kết quả gây hiểu lầm cho những thí sinh bị loại tưởng mình được đi tiếp khiến cho các thí sinh khóc hết lần này đến lần khác, tạo không khí nặng nề đầy chất kịch, chẳng khác nào tra tấn khán giả bằng sự giả tạo đến mức lố bịch. Đây cũng chính là tập mà các thí sinh khóc nhiều nhất tại VNTM năm nay và họ đã khóc rống lên như thể họ đã mất một thứ gì quan trọng nhất của cuộc đời mình vậy.
Là người mẫu, tất nhiên sự “diễn” là điều nên làm, nhưng cũng phải biết đâu là điểm dừng để nước mắt không phải trở thành trò mua vui cho thiên hạ. Năm xưa, Vũ Trọng Phụng đã từng đau đớn lòng khi đi viết phóng sự điều tra và phát hiện ra rằng, trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ có nghề khóc mướn. Ông khiến người ta phải bật lên tiếng cười, nhưng đó là nụ cười của sự chua cay, đau đớn. Từ chỗ đau buồn nghe tiếng khóc, nó bỗng dưng trở thành tiếng khóc của sự trào lộng, là sự giả dối mà con người muốn tạo ra để ngụy trang cho cái bản chất rỗng tuếch của mình. Ngày nay, VNTM có gì hơn?
Lạm dụng PR sản phẩm quá mức
Trong hai tập đầu của VNTM 2012, khán giả đã phải há hốc mồm trước những màn “hư trương thanh thế” của chương trình. Đó là việc các thí sinh được sắm vai các “nữ hoàng” khi sống một cuộc sống vương giả trong khách sạn 5 sao tại Hạ Long, sau đó được di chuyển bằng một du thuyền hoành tráng mà chắc chắn rằng, bất cứ ai cũng phải mơ ước. Các thí sinh tham gia cuộc thi còn được dự các bữa tiệc của tầng lớp thượng lưu trong các nhà hàng lớn và thậm chí là trong hang động. Người xem không ngớt lời khen ngợi cho sự “chịu chơi” của BTC nhưng hóa ra, đó chỉ là “bánh vẽ” mà nếu tinh tường một chút, sẽ không khó để kịp nhận ra nó.
Tại những địa điểm mà thí sinh xuất hiện, BTC đều rất chịu khó dành thời gian để PR cho các địa điểm, các doanh nghiệp ở đó. PR hay quảng cáo không phải là cái tội, mà cái tội của VNTM là đã quá lạm dụng những điều này và có dấu hiệu… xem thường khán giả. Người xem luôn muốn được xem các thí sinh thi thố như thế nào, diễn biến của hành trình đi tìm siêu mẫu Việt Nam chứ không phải để nghe họ bỏ hàng giờ để thực hiện việc quảng cáo của mình, dẫn tới sự bội thực và gây khó chịu.
Daisy

Nặng trĩu nỗi lòng bà mẹ trẻ định nhảy cầu tự tử



Bỏ lại túi đồ trên mặt cầu, người phụ nữ tóc tai rũ rượi vừa kêu khóc vừa leo lên lan can định nhảy xuống. Vừa lúc ấy một thanh niên qua đường lao tới kéo chị lại, ngay lập tức lực lượng công an có mặt hỗ trợ.
Vụ việc xảy ra vào lúc 17 giờ 20 ngày 28/9 trên cầu Điện Biên Phủ bắc qua kênh Thị Nghè thuộc phường Đa Kao, quận 1. Những người chứng kiến vụ việc cho biết, vào thời điểm trên, người phụ nữ mặc áo đỏ, quần Jean đi từ hướng vòng xoay Điện Biên Phủ tới cầu, vừa đi vừa kêu khóc thảm thiết. Đến giữa cầu, chị bất ngờ dừng lại bỏ túi đồ đang xách trên tay xuống mặt đường, bám hai tay vào thành cầu rồi ngửa mặt lên trời “cha ơi, tha lỗi cho con…”.
Trong lúc nghĩ quẩn, chị T. tìm đến cái chết để chôn vùi đau khổ
Khi người phụ nữ đặt chân lên thành cầu chuẩn bị lao xuống nước thì ngay lập tức một thanh niên qua đường dừng xe gắn máy nhào tới túm kịp tay chị kéo lại. Sau cú nhảy hụt, bị mọi người túm chặt tay nhưng chị vẫn vùng vằng giật mạnh, vừa tuột khỏi tầm tay mọi người chị lại nhào tới thành cầu định lao xuống lần nữa nhưng mọi người kịp thời ngăn lại. “Tôi sống giờ còn khổ hơn chết, xin mọi người hãy để tôi chết đi, đừng giữ tôi nữa...”. Người phụ nữ hơi thở nồng nặng mùi rượu gào khóc, gương mặt lộ rõ sự tuyệt vọng.
Lực lượng công an phường Đa Kao quận 1 ngay lập tức có mặt hỗ trợ, vừa khuyên can, vừa tìm hiểu hoàn cảnh. Sau một hồi đấu trí căng thẳng lực lượng công an khu vực cũng đưa được chị về chốt dân phòng. Tại đây, sau khi trấn tĩnh lại người phụ nữ cho biết tên Đ.T.T, đã có chồng và con gái 2 tuổi.
Người thanh niên mặc áo trắng đã túm kịp tay kéo chị lại
Chị cho biết: “Sau khi lập gia đình tôi mới hay chồng mình nghiện ma túy, mọi tài sản tôi tích cóp được từ thời còn con gái chẳng mấy chốc bị chồng mang đi hút chích hết”. Nhiều lần khuyên can chồng không được chị còn hứng chịu những trận đòn man rợ vì không kiếm được tiền cho chồng thỏa cơn nghiện. Để có tiền hút chích chồng chị còn tham gia vào đường dây buôn bán ma túy gieo rắc cái chết trắng cho vùng quê yên bình.
“Thương chồng nhưng khuyên can không được, tôi không nỡ nhìn anh đi vào con đường chết. Sau nhiều đêm suy nghĩ tôi quyết định tố giác hành động của chồng cho cơ quan công an. Ngày chồng tôi lĩnh án tù cũng là ngày tôi mất quyền nuôi dưỡng đối với đứa con gái mới lên 2 tuổi vì gia đình chồng đuổi tôi ra khỏi nhà. Cha mẹ chồng cho rằng tôi đã hại con trai của ông bà khiến anh phải ngồi tù”, chị T. ngậm ngùi gạt nước mắt.
Sau hồi lâu khuyên can, công an cũng đưa được chị về phường
Mẹ mất sớm, gia đình nghèo khốn không có nổi mảnh đất cắm dùi, chị T. quay về sống với người cha già yếu trong gian phòng trọ. “Dưới quê chẳng có công việc gì làm nên ngày ngày cha vẫn đi bán vé số về nuôi tôi”. Sau một thời gian suy sụp, chị T. trấn tĩnh trở lại lên TPHCM tìm việc làm với hy vọng sẽ tự lo được cho cuộc sống của mình. Công việc phụ hồ vốn chỉ dành cho nam giới nhưng vừa chân ướt chân ráo lên thành phố tìm được công việc này đối với chị cũng đã là may mắn.
“Tôi thuê nhà trọ ở ghép với mọi người, ngày ngày đi làm nhưng chưa được một tháng thì chủ thầu công trình tuyên bố giải thể. Tiền phòng không có để trả, tiền ăn cũng chẳng còn, bất đắc dĩ tôi phải điện thoại về quê nhờ cha giúp. Sau nhiều ngày tằn tiện cha tôi mới gửi lên được 500 nghìn đồng khuyên tôi về quê bán vé số cùng ông. Vừa nhận được tiền tôi gói đồ về thì chủ trọ bắt phải đóng tiền phòng rồi tiền điện nước, tôi cầm cả chiếc điện thoại được 200 nghìn đồng mới trả hết… Tôi không thể làm cái nghề “đứng đường” để nuôi thân”.
Tại chốt dân phòng chị đã bộ bạch về nỗi khổ của chính mình
Sau khi vét sạch túi mua 2 xị rượu đế chị ngồi một mình uống cạn, bao nhiêu nỗi đau ùa về. Vết thương cũ chưa kịp lành, lại thêm áp lực cuộc sống đè nén khiến chị bế tắc. Hơi men chếnh choáng, trong lúc không làm chủ được bản thân chị nghĩ quẩn tìm đến cái chết để chôn vùi thân phận đau khổ của chính mình.
“Không nghĩ tới mình nhưng chị hãy nghĩ tới người cha già tôi nghiệp đang mong ngóng chị từng ngày và đứa con thơ dại sẽ mãi phải sống trong cảnh mồ côi… Mọi khó khăn hiện tại chỉ là thử thách mình phải vượt qua, không nên đầu hàng... Đừng nghĩ dại để rồi chính mình lại làm khổ mọi người mà mình thương yêu nhất…”, người qua đường chia sẻ động viên.
Nhờ tình người chị đã "thức tỉnh". Trước khi ra bến xe về quê chị hứa sẽ "không nghĩ dại nữa"
Tại công an phương Đa Kao, sau khi trấn tĩnh trở lại chị ngượng ngùng bộc bạch về nỗi khó khăn chính khiến chị nghĩ quẩn là do không đủ tiền mua vé xe về quê. Biết được nỗi khổ trên của người mẹ trẻ khốn quẫn, một nhà hảo tâm thân thiết của Dân trí (xin được giấu tên) đã hỗ trợ chị 500 nghìn đồng tiền lộ phí.“Xã hội còn nhiều người tốt quá, tôi đã dại dột khi nghĩ quẩn. Cảm ơn mọi người đã thức tỉnh tôi...”. Chị gạt nước mắt xúc động bước lên xe gắn máy của một chiến sĩ công an ra bến đón xe về quê.
Vân Sơn

Em Như Chim Bồ Câu Trắng - Trần Ngọc



Em như chim bồ câu tung cánh giữa trời
Em như chim bồ câu trắng bay giữa trời
Em như chim bồ câu tung cánh giữa trời
Em như chim bồ câu trắng bay giữa trời
Em mong sao không có nước mắt rơi chia lìa
Em mong sao trên trái đất hoa thơm nở bốn mùa
Em mong sao trên trái đất mỗi con người như em
đây là chim trắng chim hòa bình
Sống để yêu thương (nhau ) giữ đẹp trái đất xanh

Hé lộ 14 trạng thái cuối cùng trước khi chết



Nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ, Tiến sĩ Raymond Moody, sau khi nghiên cứu 150 ca thể nghiệm cận chết, đã cố gắng làm rõ sự thật của cái chết.
1. Nghe tin về cái chết của mình: Họ nghe thấy bác sĩ hay người khác ở tại chỗ công bố rõ ràng về cái chết của mình. Anh ta cảm thấy sự suy kiệt sinh lý đã tới cực hạn.

2. Chưa bao giờ có trải nghiệm dễ chịu như thế: Ở giai đoạn đầu “thể nghiệm cận chết” có cảm giác êm đềm yên lành, khiến cho người ta có cảm giác dễ chịu.

Đầu tiên sẽ cảm thấy đau, nhưng cảm giác đau này qua rất nhanh, tiếp đó cảm thấy mình đang trôi bồng bềnh trong một không gian tối tăm. Một cảm giác dễ chịu nhất chưa từng thể nghiệm quây lấy anh ta.

3. Nghe thấy âm thanh lạ: Khi “cận chết” hoặc “chết”, sẽ có âm thanh lạ vọng tới. Một cô gái trẻ nói, cô nghe thấy một giai điệu giống như điệu nhạc, đó là một giai điệu tuyệt đẹp.

4. Bị kéo vào không gian tối tăm: Có người cho biết anh ta cảm thấy đột nhiên bị kéo vào một không gian tối tăm. Bạn sẽ bắt đầu thấy giống như một hình trụ không có không khí, có cảm giác là một vùng lọc, một bên là thế giới hiện thực, một bên là vùng đất lạ.

5. Nhìn thấy cái xác của mình: Phát hiện thấy mình đang đứng ở một nơi nào đó ngoài cơ thể quan sát cái xác của mình. Một người đàn ông bị đuối nước nhớ lại kể, anh ta thoát ra khỏi cơ thể, một mình trong một không gian, thấy mình giống như một chiếc lông vũ.

6. Người khác không nghe thấy lời bạn: Họ cố sức muốn bảo cho người khác biết về tình thế khốn quẫn mà mình đang bị lâm vào, nhưng chẳng ai nghe thấy lời họ. Một cô gái nói, tôi thử nói chuyện với họ, nhưng chẳng ai nghe thấy.

7. Cố sức thoát ra khỏi thể xác của mình: Khi ở trạng thái thoát xác, sẽ mất sự cảm nhận về thời gian. Có người nhớ lại kể, trong khoảng thời gian ấy, anh ta từng cố sức thoát ra khỏi thể xác của mình.

8. Các cơ quan cảm giác chưa bao giờ nhạy như thế: Thị giác, thính giác, nhạy hơn trước đó. Một người đàn ông kể, anh ta chưa bao giờ nghe rõ như thế, tầm nhìn được tăng lên không ngờ.

9. Cô đơn trống trải, không thể giao tiếp được: Sau đó sẽ xuất hiện cảm giác hết sức cô đơn hoặc bị cô lập. Một người đàn ông kể, anh ta có gắng sức đến thế nào cũng không thể giao lưu được với người khác, cho nên, “tôi cảm thấy hết sức cô đơn”.

10. Cạnh mình có “người” đi theo: Lúc này, bên cạnh mình xuất hiện “người” khác. “Người” này nếu không đến để giúp cho anh ta tới được xứ sở của người chết một cách thanh thản, thì cũng tới để nói cho họ biết tiếng chuông báo tử còn chưa gõ, phải quay về đợi một thời gian nữa đã.

11. Xuất hiện ánh sáng vào thời khắc cuối cùng: Ở thời khắc cuối cùng “thể nghiệm cận chết” sẽ xuất hiện ánh sáng. Luồng ánh sáng này mang một “nhân tính” nào đó, một “nhân tính” hết sức rõ ràng.

12. Hồi vọng lại cả hành trình đời người: Lúc này, đương sự sẽ nhớ lại một lần toàn cảnh cả cuộc đời.

Khi người trải nghiệm dùng những cụm từ thời gian để mô tả nó, đều là “cảnh này tiếp cảnh kia, chuyển theo đúng trình tự thời gian sự việc xảy ra, thậm chí còn kèm theo cả hình ảnh, một vài cảm giác và tình cảm khi ấy cũng được thể nghiệm lại”.

13. Bị giới tuyến ngăn trở: Vào lúc này, người ta sẽ gặp một thứ có thể gọi là dạng “giáp biên” hay “giới tuyến”, ngăn trở bạn tới một nơi nào đó, được biểu thị bằng nhiều hình thái khác nhau: Một bãi sông, một đám mây mù, một cánh cửa, một hàng rào trong cánh đồng hoang, hoặc là một đường vạch.

14. Sinh mệnh trở lại: Nếu như may mắn được cứu sống, sau khi đã tiến hành “thể nghiệm cận chết” ở các mức độ khác nhau, người ta phải “trở về”.

Ban đầu, rất nhiều người muốn nhanh chóng trở về cơ thể mình, nhưng, cùng với độ sâu đi vào thể nghiệm cận chết, anh ta bắt đầu chối bỏ không muốn trở về cơ thể ban đầu.

Nếu gặp phải sự hiện diện của ánh sáng, thì thứ tình cảm này lại càng mãnh liệt hơn, tiếp đó, bạn đã “trở về” thực sự.

Những biểu hiện này được nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ, Tiến sĩ Raymond Moody, đúc kết sau khi nghiên cứu 150 ca cận chết.

Mặc dù hoàn cảnh xảy ra sự thể nghiệm cận chết, cùng tính cách của các cá nhân thể nghiệm cận chết có sự khác nhau cực lớn, trong lời kể lại của những “người thể nghiệm cận chết” vẫn có những điểm giống nhau không thể bỏ qua, họ đã sắp xếp dựa theo trình tự trước sau xuất hiện sự cảm nhận.

Dịch từ Daily Mail

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012


KÍNH MỪNG MARIA
Tháng 10 – Tháng Mân Côi, nhắc nhở mỗi người tín hữu chúng ta ý thức hơn về tầm quan trọng của việc lần Chuỗi. Chúng ta cùng suy ngẫm câu chuyện sau:
Hoàng hậu Blanche xứ Castille nước Pháp đã phải đau buồn cùng cực vì bà thành hôn mười hai năm rồi mà vẫn không có con. Khi đến thăm thánh Đaminh, Ngài khuyên hoàng hậu đọc kinh Mân Côi hàng ngày để xin Thiên Chúa ban diễm phúc được làm mẹ. Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Vài năm sau đó, hoàng hậu hạ sinh hoàng nam đầu lòng. Đó là hoàng tử Philip. Nhưng con trẻ chết ngay khi còn trong trứng nước.
Trước nỗi bất hạnh này, hoàng hậu vẫn không ngã lòng, không chút nao núng niềm tin. Trái lại, bà tha thiết van xin Đức Mẹ cứu giúp. Hoàng hậu cũng phân phát nhiều tràng hạt Mân Côi cho các triều thần cùng dân chúng trong cả nước, và xin tiếp lời cầu nguyện cho bà.
Qua sự bầu cử của Đức Mẹ, Chúa đã nhận lời cầu xin của bà, một vị hoàng tử chào đời. Hoàng tử này đã trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương mẫu cho tất cả các hoàng đế Công giáo. Vị hoàng đế này sau đã trở thành một vị thánh. Đó là vua thánh Louis.
Kể sao cho hết những ơn lành Mẹ Maria đã ban xuống cho nhân loại qua kinh Kính Mừng. Bởi vì kinh Kính Mừng là kinh mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ rất ưa thích.
Qua mỗi lời kinh “Kính Mừng”, chúng ta nhắc lại niềm vinh hạnh lớn lao mà Thiên Chúa đã ân ban cho Mẹ khi người gửi sứ thần Gabriel đến kinh chào Mẹ là “Đấng đầy Ơn phúc”.
Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã thường thi ân cho cả những kẻ nguyền rủa Ngài, thì làm sao các Ngài có thể từ chối ban ơn lành cho những người con thảo hiếu hằng chúc tụng, tôn vinh và yêu mến các Ngài qua kinh Kính Mừng.
Thánh Bonaventura nói rằng: “Nếu ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng, thì Mẹ sẽ đáp lại ta bằng muôn ơn phúc”. Thật vậy, ngay khi thánh nữ Elizabeth nghe lời Mẹ chào, thì lập tức bà được đầy tràn Chúa Thánh Thần, và Gioan, con trong lòng bà liền nhảy mừng.
Nếu chúng ta hằng ngày đọc kinh Kính Mừng cách thành kính sốt sắng để chào kính và chúc tụng Đức Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được ơn phúc chan hoà, và niềm an ủi thiêng liêng sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta.
***
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp con biết siêng năng lần hạt Mân Côi hằng ngày, cho con được gia nhập đạo binh con cái hiếu thảo của Mẹ, để con không ngừng tôn vinh, chúc tụng và yêu mến Mẹ bây giờ và mãi mãi. Amen!
 Thiên Phúc
 

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với phật tử Việt Nam : Chủ nghĩa Mác đã chết








                    Lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tú Anh
Phân chia tài sản đồng đều là một nguyên tắc hấp dẫn của chủ nghĩa Mác, nhưng không bao giờ được thực hiện, còn các chế độ cộng sản luôn luôn tìm cách kiểm soát đời sống và tư lưởng con người. Điều này không thể chấp nhận được. Trên đây là thông điệp của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi pháp đàm dành cho phái đoàn 102 phật tử Việt Nam tại Dharamsala, Ấn Độ, nơi đặt bản doanh của chính phủ Tây Tạng lưu vong.
Theo bản tin của Asia News ngày 27/09/2012, một phái đoàn phật tử Việt Nam theo hệ phái Tây Tạng đã đến Dharamsala, Ấn Độ, trong lúc cộng đồng Tây Tạng lưu vong họp đại hội quyết định đường lối đấu tranh mới với Bắc Kinh trong bối cảnh xẩy ra hàng loạt vụ tự thiêu tại Hoa lục.

Phái đoàn này, một nửa từ Sài Gòn, một nửa từ Hà Nội, tổng cộng 102 người thành viên của Câu lạc bộ Giám đốc điều hành Việt Nam CEO’s Club, một tổ chức doanh nhân phật tử “có ít nhiều cảm tình” với chính quyền.
Trong buổi pháp thoại đặc biệt dành cho đoàn phật tử Việt Nam, Đức Đạt Lai Lạt Ma phân tích, chủ thuyết cộng sản chỉ mới có 200 năm mà đã suy đồi, trong khi Phật giáo và các tôn giáo khác đã nhiều ngàn năm mà vẫn thu hút cả thế giới. Ngài lưu ý phật tử là một số nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản như là “chia sẻ tài sản đồng đều” nghe rất hấp dẫn. Nhưng trong thực tế, các chính quyền tự xưng là cộng sản “không bao giờ áp dụng” mà lại còn "kềm chế, kiểm soát tự do tư trưởng con người”, một điều mà Ngài khẳng định là “không thể chấp nhận được”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tỏ vẻ ưu ái phật tử Việt Nam, Ngài trả lời mọi thắc mắc từ tình mẫu tử, từ câu hỏi của một người mẹ làm sao tạo ra cuộc sống hạnh phúc gia đình cho đến chuyện Trung Quốc tranh giành chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, “ phải giáo dục con trẻ trong tinh thần tự do ”, bản thân mình phải mở rộng lòng thương và sống tích cực trong mọi hoàn cảnh.
Trước thái độ xâm lược của Trung Quốc, Ngài khuyên là nên tìm cách chuyển hóa họ trong tinh thần Bi, Trí, Dũng. Khi một phật tử mời Ngài du lịch đảo Hoàng Sa hoặc Trường Sa, nơi Việt Nam đang xây một ngôi chùa thì Đức Đạt Lai khuyên là nên xây trung tâm Phật học tại Hà Nội và Sàigòn. Theo Khôi nguyên Nobel Hòa bình 1989, lập một tu viện tại Sàigòn và Hà Nội vẫn hữu ích hơn ở hòn đảo nhỏ.
Theo Asia News, phái đoàn phật tử doanh nhân Việt nam gặp khó khăn trước khi xin được visa sang Ấn Độ để tu học với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Truyền thông Tây Tạng lưu vong rất quan tâm, quảng bá sự kiện này và nhấn mạnh đến quan hệ chặt chẽ giữa đảng Cộng sản Trung Quốc và đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây là lần thứ hai, lãnh đạo tinh thần Tây Tạng giảng trực tiếp cho phái đoàn phật tử Việt Nam. Lần đầu vào tháng 11 năm 2011 cũng tai Dharamsala.
Một blogger Việt Nam, Quechoa, viết những dòng khâm phục : “Đức Đạt Lai Lạt Ma dù chưa tới Việt Nam bao giờ vẫn có thể nhìn thấu những vấn đề căn bản của đất nước này”.
Đề cập khả năng thay đổi tại Tây tạng 
Lãnh đạo tinh thần Tây Tạng thẩm định là với thế hệ mới sắp lên cầm quyền tại Bắc Kinh, hy vọng tình hình Tây Tạng sẽ thay đổi. Tập Cận Bình sẽ không có con đường nào khác ngoài giải pháp toàn diện phục vụ quyền lợi lâu dài của hai dân tộc. 
Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, suốt chiều dài cuộc tranh đấu bền bỉ chống chính quyền Trung Quốc, người dân Tây Tạng luôn nắm bắt mọi cơ hội để giữ tinh thần lạc quan. Do vậy với sự kiện một thế hệ mới sắp lên cầm quyền tại Trung Quốc đã tạo ra một tia hy vọng mới.
Từ Dharamsala, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận định là ban lãnh đạo mới tại Bắc Kinh « phải chứng tỏ phải biết phân biệt phải trái và phải có một lập trường toàn diện để phục vụ lợi ích lâu dài. Vì không có con đường nào khác”.
Ngài cảnh báo Trung Quốc là nếu tiếp tục dùng vũ lực, dùng kiểm duyệt để bóp nghẹt xã hội thì sẽ đi đến tiêu vong.
Theo AFP, một trong những tín hiệu cho phép lãnh đạo tinh thần Tây Tạng hy vọng Trung Quốc “thay đổi” là thân phụ của ông Tập Cận Bình là Tập Trọng Huân đã từng gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma trong những năm đầu của thập niên 1950 trước khi có cuộc tổng nổi dậy.
Tập Trọng Huân sau đó lên làm phó thủ tướng và có tiếng là thông hiểu nguyện vọng của các sắc tộc thiểu số trong chế độ Trung Quốc. Giới phân tích hy vọng nhân vật này đã “truyền” lại cho con trai tinh thần cởi mở này.
TAGS: CHÂU Á - TÂY TẠNG - TÔN GIÁO - VIỆT NAM

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

Ý Thức và Chuyển Hóa Cái Giận


Không Cắt Bỏ
Y học Âu Tây quá chú trọng về khoa giải phẩu. Bác sĩ muốn cắt bỏ những gì họ cho là không còn dùng được nữa. Khi có một cái gì không ổn trong thân thể, họ thường khuyên chúng ta nên cắt bỏ. Trong ngành tâm lý trị liệu cũng vậy. Những nhà trị liệu tâm lý cũng muốn ta vứt bỏ những gì ta không thích và chỉ giữ lại những gì ta thích. Mà cái được giữ lại, thường thường chẳng là bao. Cho nên nếu cần vứt bỏ cái ta không thích, thì thường thường chúng ta phải vứt bỏ phần lớn con người của ta.
Cho nên thay vì cắt xén, ta học cách chuyển hóa. Ví dụ, ta chuyển hóa cái giận, làm cho cái giận trở thành một cái gì lành mạnh, như sự hiểu biết. Ta không cần đến khoa giải phẩu để cắt bỏ cái giận của ta. Nếu ta giận cái giận của ta, ta sẽ có hai cái giận cùng một lúc. Ta chỉ cần quan sát nó một cách chăm chú và từ hòa. Nhờ vậy nó sẽ được chuyển hóa và ta không cần phải chạy trốn nó. Đó là cách làm hòa với nó. Nếu ta có đủ an lạc, ta sẽ làm hòa rất dễ dàng với cái giận. Với buồn lo, chán nản, sợ hãi hay với bất cứ trạng thái khó chịu nào cũng vậy.
Ý Thức Về Cái Giận
Giận là một cảm thọ khó chịu. Nó như một ngọn lửa cháy phừng phựt trong lòng và làm tiêu ma cả sự tự chủ của ta. Nó khiến ta nói và làm những điều mà sau này có thể ta sẽ hối tiếc. Khi một người nổi giận, ta thấy rõ ràng là người ấy đang ở trong hỏa ngục. Mà hỏa ngục là do sân hận tạo ra.
Một người không biết giận là một người tươi mát, thánh thiện. Nơi nào không có sân hận, nơi đó có hạnh phúc chân thật, có từ và có bi.
Khi ta dùng ánh sáng chánh niệm soi vào cơn giận, cơn giận mất dần năng lực. Ta tự bảo: “Thở vào, tôi biết tôi đang giận. Thở ra tôi biết tôi đang là cơn giận của tôi”. Nếu ta biết theo dõi hơi thở trong khi nhận diện và quan sát cơn giận, cơn giận sẽ không còn dám tác oai tác quái trên tâm thức của ta nữa.
Cho nên, chánh niệm là một người bạn có thể giúp ta khi cơn giận bộc phát. Chánh niệm đến không phải để đàn áp hay xua đuổi cơn giận. Chánh niệm không phải là ông quan tòa. Chánh niệm đến như một người chị đến săn sóc, an ủi và vổ về đứa em. Ta có thể chú tâm vào hơi thở để duy trì chánh niệm và để hiểu chính ta rõ hơn.
Khi giận, ta thường có khuynh hướng nghĩ nhiều về người làm ta giận, hơn là trở về để quan sát chính mình. Ta chỉ nghĩ đến những cái đáng ghét nơi người ấy, sự cộc cằn, sự thiếu chân thật, sự tàn bạo, sự ranh mãnh v.v…. Càng nghĩ đến người ấy, càng nhìn thấy người ấy, càng nghe người ấy nói, lửa giận trong ta cháy phừng.
Có thể người ấy có nhiều cái đáng ghét thật, cũng có thể do ta tưởng tượng và phóng đại lên, nhưng cái chính yếu làm cho ta đau khổ vẫn là cơn giận của ta. Cho nên điều trước tiên là ta quay trở về với chính ta để quản lý cơn giận của ta. Và tốt nhất là đừng nhìn, đừng nghe người mà ta cho là nguyên nhân của cơn giận. Cũng như người đi chữa lửa, phải tìm cách tưới nước lên đám lửa cháy chứ không phí thì giờ đi tìm người gây ra đám cháy. “Thở vào là tôi biết tôi đang giận. Thở ra, tôi phải để hết tâm ý chăm sóc cơn giận của tôi”. Tuyệt đối đừng nghĩ gì về người kia, và nhất là đừng làm, đừng nói gì hết trong khi đang giận. Nếu ta để hết tâm ý quan sát cơn giận, ta sẽ tránh được nhiều lầm lỗi mà sau này ta có thể hối tiếc.
Khi giận, ta chính là cơn giận. Nếu ta đàn áp hay xua đuổi nó, tức là ta đàn áp và xua đuổi chính ta. Khi vui ta là niềm vui. Do đó, khi cơn giận xuất hiện, ta nên nhớ rằng giận là một nguồn năng lực có công năng phá hoại mà ta có thể chuyển hóa thành một nguồn năng lực khác có lợi hơn. Khi ta có một thùng rác hữu hiệu đang bốc mùi, ta biết rằng ta có thể biến nó thành phân đất và những bông hoa thơm. Lúc đầu, ta có thể thấy rác và hoa là hai cái trái chống nhau, nhưng khi nhìn kỹ và sâu, ta thấy hoa đã có sẵn trong rác và rác đã có sẵn trong hoa. Chỉ cần một hai tuần là hoa đã biến thành rác. Một nhà làm vườn giỏi, nhìn vào rác là đã thấy ngay điều đó. Bà ta không cảm thấy buồn chán hay ghê tởm rác. Trái lại, bà ta thấy được giá trị của rác. Chỉ cần một vài tháng là rác sẽ biến thành hoa. Ta hãy là người làm vườn giỏi, ta nhìn vào cơn giận và không còn thấy sợ hãi và muốn xua đuổi nó. Cái giận cũng như rác có thể biến thành một cái gì khác đẹp hơn.Ta cần nó như nhà làm vườn cần phân. Khi ta biết chấp nhận nó, ta đã bắt đầu có chút nào an lạc rồi. Từ đó ta dần dần chuyển hóa nó thành hiểu biết và thương yêu.
Đập Gối Để Trút Cái Giận
Biểu lộ cái giận không phải luôn luôn là một điều tốt. Khi để nó phát hiện và duy trì nó là ta càng làm cho hạt giống giận mạnh hơn trong tiềm thức ta. Biểu lộ sự giận dữ với người làm ta giận có thể gây nhiều đổ vỡ.
Có những người chọn cách đập gối để trút cái giận ra ngoài. Họ vào phòng, đóng kín cửa lại và trút tất cả cơn giận dữ vào cái gối bằng cách đập nó túi bụi. Có người cho rằng làm như vậy là tiếp xúc với cái giận. Tôi thì không nghĩ như vậy. Làm như vậy cũng không phải là tiếp xúc với cái gối. Nếu mình hiểu cái gối là gì, mình sẽ không đánh đập nó túi bụi như vậy. Có điều sau khi đập gối một lúc thì ta mệt đừ và cảm thấy đỡ tức tối hơn. Nhưng thật ra căn nguyên cái giận vẫn còn nằm y nguyên trong ta. Sau khi ăn uống no nê, sức lực ta trở lại, và lúc đó nếu có ai tưới tầm hạt giống giận ấy trong ta, cơn giận sẽ bộc phát lại ngay và ta lại phải đi tìm cái gối để cho đỡ khổ.
Cho nên cách đập gối cho đỡ giận chỉ làm ta nguôi ngoai trong chốc lát chứ không làm ta hết giận thật sự. Ta phải nhìn sâu vào cơn giận, tìm hiểu nó tận gốc rễ, nếu không, hạt giống của cái giận sẽ mọc trở lại rất nhanh.
Trong đời sống hằng ngày, nếu ta chuyên tâm gieo trồng cho thật nhiều hạt giống tốt lành, những hạt giống này sẽ chăm sóc cho hạt giống giận của ta và dần dần chuyển hóa nó mà ta không cần phải cố gắng nhiều.
Chánh niệm của ta như mặt trời rọi ánh sáng lên mọi thứ. Mặt trời có vẻ không làm gì nhiều, thế mà khi cây cối được ánh sáng mặt trời chiếu soi là chuyển đổi không ngừng. Hoa phù dung thường khép cánh lại khi trời xụp tối, thế mà chỉ cần có ánh mặt trời chiếu xuyên qua nó trong vài giờ là nó lại hé mở, không cưỡng lại được.
Chánh niệm của ta cũng vậy, nếu được nuôi dưỡng thường xuyên, sẽ soi thấu vào lòng cái giận khiến nó phải mở tung ra để ta thấy rõ bản chất của nó. Khi ta thấy rõ được bộ mặt thật của cái giận, ta sẽ không còn bị nó khống chế nữa, ta sẽ được giải thoát.
Đi Thiền Hành Khi Đang Giận
Khi giận ai, ta nên đi thiền hành ngoài trời. Không khí trong lành, cây cối xanh tươi, có thể giúp ta lấy lại sự bình thản. Ta có thể thực tập như sau:
Thở vào, tôi biết tôi đang giận
Thở ra, tôi biết cái giận là tôi
Thở vào, tôi biết cái giận làm tôi khó chịu
Thở ra, tôi biết cái giận rồi sẽ qua
Thở vào, tôi thấy tâm đã tĩnh lặng
Thở ra, tôi thấy tôi đủ mạnh để chăm sóc cái giận
Vừa đi, ta vừa đọc thầm bài kệ trên, tâm ta theo dõi từng bước chân và từng hơi thở, ý thức được bàn chân ta chạm trên mặt đất. Thở sâu, bước chậm, vừa ngắm nhìn cảnh đẹp chung quanh. Tâm ta dần dần lắng lại. Ta thấy ta vững chãi trở lại, lúc ấy ta sẽ nhìn sâu vào cái giận để thấy rõ nó hơn.
Luộc Khoai
Nhờ dùng ánh sáng chánh niệm chiếu soi vào cái giận, ta bắt đầu thấy được gốc rễ của nó. Cái giận có nhiều nguyên do, vì hiểu lầm, vì vụng về, vì sự bất công hoặc vì tâm ta chứa nhiều hạt giống sân hận.
Những nguyên nhân này có thể đã có mặt trong ta và trong người làm ta giận. Ta phải dùng chánh niệm để quán chiếu mới có thể nhận diện được chúng và hiểu được bản chất của chúng. Phải thấy và hiểu, ta mới có thể có từ và bi.
Ta không ăn được khoai sống, nhưng không phải vì vậy mà ta vứt nó đi. Ta có thể luộc cho khoai chín. Ta bỏ khoai vào nồi nước và ta đậy nắp lại, bắt lên lửa. Lửa là chánh niệm, là hơi thở ý thức, là sự quán chiếu cái giận. Cái nắp là định lực, là sự tập trung vì nó ngăn không cho hơi nóng bay ra ngoài. Khi ta theo dõi hơi thở và thực tập quán chiếu cái giận, ta cần phải tập trung tâm ý để giữ vững chánh niệm. Do đó ta không để tâm chạy tán loạn. Nếu ta đi thiền hành ngoài trời, giữa cỏ cây hoa lá; sự thực tập càng dễ dàng hơn.
Ngay khi ta đặt nồi khoai lên lò lửa, sự chuyển đổi đã bắt đầu. Nước bắt đầu nóng. Mười phút sau thì nước sôi. Nhưng ta không tắt lửa vì ta phải đợi cho khoai chín. Cũng như vậy, khi ta theo dõi hơi thở và quán chiếu cái giận, sự chuyển hóa đã bắt đầu. Sau nửa giờ đồng hồ, ta mở nắp ra và ta ngửi thấy mùi khoai thơm. Bây giờ là lúc ta có thể ăn khoai. Cái giận đã biến thành một năng lực khác, năng lực hiểu biết và thương yêu.
Nguồn Gốc Của Cái Giận
Cái giận bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về chính con người ta và về những nguyên nhân xa và gần đưa tới tình trạng nóng bức hiện tại. Ta giận có thể cũng vì một ham muốn nào đó, vì tự kiêu, vì nghi ngờ hay bực bội. Do đó nguyên nhân chính của cái giận nằm ở trong ta; hoàn cảnh bên ngoài và những người chung quanh chỉ đóng vai trò phụ.
Khi một trận động đất hay lụt lội xảy ra, ta có thể chấp nhận dễ dàng những thiệt hại to lớn đó. Nhưng khi có sự đỗ vỡ do một người gây ra, ta lại không đủ kiên nhẩn để chịu đựng. Ta hiểu vì đâu mà có lụt lội hay động đất. Thế mà ta lại không chịu khó tìm hiểu do đâu mà người đó đã gây ra cơn dữ của ta.
Ví dụ có ngươi vừa nói với ta một câu rất khó chịu. Có thể vì anh ta cũng vừa bị ai đó nói với anh ta như vậy. Cũng có thể khi anh ta còn nhỏ, người cha nghiện ngập của anh ta đã từng nói với anh ta bằng cái giọng gây gắt đó. Khi thấy rõ những nguyên nhân này, không thể nào mà ta còn giận cho được. Nói như vậy là ta không có nghĩa là ta dung dưỡng những con người độc ác luôn tìm cách hại ta. Điều quan trọng tôi muốn nói là ta phải lo chăm sóc những hạt giống giận trong con người ta trước nhất. Sau đó, nếu người đó quả là một con người quá quắt cần phải sửa trị thì ta sẽ sửa trị nhưng vì lòng thương hơn là vì cái sợ hay ý chí trả thù.
Khi ta thực sự hiểu được những đau khổ của người khác, ta sẽ tìm cách giúp họ vượt thoát những đau khổ, và bằng cách giúp họ vượt thoát những đau khổ đó; và bằng cách ấy ta cũng giúp chính ta. Ta làm cho tâm ta nhẹ nhàng, an lạc, thấm nhuần chất liệu của thương yêu.
Trích từ sách “An Lạc từng bước chân” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
 

Yêu Thương Kẻ Thù



Bạn trẻ thân mến,
Yêu thương kẻ thù là nét nổi bật của giáo lý Ki-tô Giáo “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. Chúa Giê-su khẳng định nếu chúng ta thực thi như thế, chúng ta sẽ “được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời”. Mọi người, dù là dân ngoại, người ta cũng yêu thương người nhà và ghét địch thù, nếu người tín hữu chỉ yêu thương người nhà thôi, thì đâu có gì khác với những người kia đâu.
Vì sao chúng ta phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Không vì một lý do nào khác hơn là tự căn tính tất cả chúng ta, dù là gian ác, hiền lành, dù là da trắng, da màu, đều là anh em chung một cha trên trời. Ngài đã tạo thành và nuôi dưỡng chúng ta như nhau. Ngài “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Vì căn tính chúng ta là anh em, nên yêu thương nhau cũng là một đòi hỏi thuộc căn tính của chúng ta. Làm ngược lại với căn tính, trước hết chúng ta đã tự phản bội chính mình, trước khi phản bội đấng mà chúng ta vẫn gọi là Cha.
Yêu thương và tha thứ là hai người bạn luôn đi xong xong với nhau. Bài học tha thứ mà Chúadạy các môn đệ trước cuộc khổ nạn là cúi mình phục vụ để tha thứ. Trong buổi tiệc ly, bên cạnh bài học phục vụ, Chúa muốn các môn đệ của Ngài biết tha thứ cha nhau. Sự tha thứ không cần bắc đầu bằng hành vi xin lỗi của người có lỗi. Nhưng người môn đệ đích thực của Chúa cần phải đi bước trước trong việc hòa giải này. Chính người tha thứ cần đi bước trước một cách khiêm hạ trước người được tha, là cúi mình phục vụ như một người tôi tớ đối với người có lỗi. Chúa nói với Phê-rô: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13,8). Chúa biết Phê-rô còn vướng mắc một điều mà Phê-rô hiện tại chưa biết, Chúa biết Phê-rô sẽ chối Ngài. Qua hành vi rửa chân, Ngài muốn nói với Phê-rô rằng Thầy đã tha thứ cho anh. Rửa chân là hành vi làm sạch, cúi xuống rửa chân cho người khác là cúi xuống làm cho người khác được sạch; chính Ngài đã cúi xuốn để làm cho các môn đệ của Ngài được sạch. Ngài đã cúi xuống để tha thư hết những lỗi lầm mà Ngài biết các môn đệ của Ngài sẽ vấp phải. Cuộc sống thường nhật chẳng bao giờ thấy có kiểu tha thứ nào như kiểu tha thứ của Chúa. Còn bài học khiêm hạ nào tốt hơn để cho chúng ta học ngoài bài học mà chính Chúa dạy cho chúng ta.
Yêu thương và tha thứ kẻ thù không phải lúc nào cũng dễ, nhưng bạn đừng lo vì Chúa nói “Ơn ta đủ cho con”. Cha chúng ta ở trên trời luôn ban cho chúng ta dư dật ân huệ, Ngài ban cho người công chính cũng như người bất chính dư tràn những ơn cần thiết. Chỉ cần chúng ta mở lòng đón nhận, chỉnh cần chúng ta mở cửa lòng để Chúa ngự vào nhà mình, thì ta có thể làm được nhiều điều tuyệt vời mà ta không bao giờ giám nghĩ đến. Càng yêu thương, càng tha thứ, thì cánh cửa lòng ta càng mở lớn để đón nhận ơn Chúa.
Khi nói về chứng nhân tử đạo đầu tiên trên quê hương Việt Nam, á thánh An-rê Phú Yên, người ta nói đến câu thời danh của Ngài “ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu.” Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tinh tuyền, Ngài yêu ta đến nỗi trở nên mọi sự cho chúng ta. Câu nói của An-rê Phú Yên ngày nay cũng vang lên trong lòng người trẻ “hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu Chúa dành cho chúng ta”. Chúa muốn chúng ta yêu thương ngay cả những người thù ghét, bách hại chúng ta. Sẽ hội con người sẽ đi về đâu nếu như chúng ta lấy oán hận đối lại oán hận. Chỉ có tình yêu và tha thứ mới làm cho những vết thương nơi tâm hồn con người được lành lành, chỉ có tình yêu và tha thứ mới mang lại bình an đích thực cho con người.
Lạy Chúa Giêsu
Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
Nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
Dễ thấy Chúa hiện diện
Và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
Xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
Khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
Để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
Để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
Vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
Hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
RADIO VATICANA
NGƯỜI VIẾT: Nguyễn Hiền Nhu
 

30 TÌNH KHÚC VƯỢT THỜI GIAN



 Mùa nóng đến


         Mời chơi trò gỉải trí :   "đập ruồi"
              
     
               Bấm vào đây >  http://www.majman.net/flyswatter/ 


YouTubehelp center | e-mail options | report spam
Phung Tran has shared a video playlist with you on YouTube.
. Kỹ sư GUSTAVE EIFFE.

image
Ngày 10-10-1889, khi tới thăm Tháp Eiffel, nhà phát minh trứ danh người Mỹ Thomas Edison đã viết vào sổ vàng lưu niệm ở đây những lời lẽ trân trọng đến mức tưởng như không còn gì đáng trân trọng hơn:
Xin gửi tới Ngài Eiffel,
Công Trình Sư dũng cảm đã xây dựng nên mô hình khổng lồ và kỳ diệu của công nghệ hiện đại,
lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ cao nhất của tôi dành cho tất cả các kỹ sư (đã tham gia xây dựng Tháp),
bao gồm Ngài Kỹ Sư Vĩ Đại.
Vị Chúa Tốt Lành,
Ký tên: Thomas Edison.
Sự trân trọng tột cùng đó hoàn toàn xứng đáng với một con người không chỉ tạo ra một Tháp Eiffel huyền thoại, mà còn là đồng tác giả của Tượng Nữ Thần tự Do bất hủ ở Mỹ, và là tác giả của hàng chục công trình sắt thép khổng lồ nổi tiếng khác trên khắp thế giới, trong đó có Cầu Long Biên ở Hànội, Cầu Tràng Tiền ở Huế và Kết Cấu Nhà Bưu Điện Sàigòn.
image
Cầu Long Biên đầu thế kỷ 20
image
Cầu Tràng Tiền, Huế (ảnh mới chụp gần đây)
image
Nhà Bưu Điện Sàigòn bên ngoài và bên trong (ảnh 2001)
Nhưng cuộc sống đôi khi rất nghịch lý: Người đời thường để ý đến công trình của ông nhiều hơn chính bản thân ông.
Năm 1889, khi chứng kiến đám đông nườm nượp kéo đến chiêm ngưỡng chiếc Tháp Eiffel, tác giả của chiếc Tháp đã phải thốt lên: "Tôi phát ghen lên với nó, vì nó còn nổi tiếng hơn tôi!".
Trong bài báo "Gustave Eiffel: The Man Behind The Masterpiece" (Gustave Eiffel: Người đứng sau công trình kiệt tác), Karen Plumley viết:
"Mặc dù Eiffel tự hào với cái Tháp huyền thoại mang tên ông, nhưng ông thường cảm thấy chính huyền thoại đó lại cản trở công chúng biết đến ông hơn như một kỹ sư và nhà nghiên cứu tài ba. Khi Eiffel lấy tên mình để đặt cho ngọn Tháp, đó là một biểu hiện chính đáng của lòng kiêu hãnh, nhưng rồi chính ông phải lấy làm ân hận. Trải qua thời gian, cái tên đó và công trình đó hợp nhất làm một, trong khi tác giả đứng đằng sau công trình bất hủ đó thì dần dần bị quên lãng trong bóng tối của chính công trình sáng tạo của mình".
image
Cầu Long Biên, một tác phẩm của Eiffel, một trong những dấu ấn biểu tượng của Hànội
Vậy thiết tưởng đã đến lúc chúng ta phải biết rõ Alexandre Gustave Eiffel (1832-1923), người đã để lại trên thế gian này những kỳ đài bất hủ không thể nào quên, và đặc biệt đã để lại trên đất Việt Nam của chúng ta một kiệt tác về kết cấu và nghệ thuật – Cầu Long Biên Hànội, một "con rồng của Thăng Long" trong thế kỷ 20.
Một Gustave Eiffel đa tài và lãng mạn:
image
Alexandre Gustave Eiffel sinh ngày 15-12-1832 tại Dijon, Pháp. Là một người đa tài, làm nhiều việc, giỏi nhiều nghề, nhưng ông nổi danh với tư cách một kỹ sư tài ba về kết cấu thép và nền móng. Tuy nghề nghiệp luôn đòi hỏi những tính toán chính xác đến mức khắt khe, bản tính ông lại rất lãng mạn, thích tự do phóng khoáng, không chấp nhận sự gò bó áp đặt, thích sống theo hứng thú của bản thân, ngưỡng mộ văn chương cổ điển, ngốn ngấu đọc Voltaire, Zola, Hugo, và nhiều tác giả khác.
Với bản tính đó, Eiffel là người sống đầy nhiệt huyết, hăng say hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Vừa là một công trình sư bậc thầy, vừa là một nhà doanh nghiệp lớn, vừa là một nhà nghiên cứu khoa học: Ngoài những công trình bằng xương bằng thịt mà ai cũng thấy, ông đã để lại cho đời 31 cuốn sách và rất nhiều bài khảo cứu về kết cấu công trình và kết cấu nền móng. Ông được coi là vua – nhà tiên phong – trong lĩnh vực kết cấu thép. Nhiều phương pháp xử lý kết cấu của ông đến nay vẫn được áp dụng và đã trở thành kinh điển.
Làm việc phi thường nhưng Eiffel được ông Trời ban cho một sức khoẻ hiếm có: Ngoài 80 tuổi vẫn bơi khoẻ, đấu kiếm tốt, mãi đến năm 1923 mới mất, thọ 91 tuổi. Hiếm có một danh nhân, một nhân vật nào đạt tới vinh quang tột đỉnh lại có tuổi thọ cao đến thế! Ông được người đời kính trọng và yêu mến, phần thưởng danh dự do các chính phủ trên thế giới trao tặng cho ông nhiều đến mức không đếm xuể.
Tính cách năng động, tháo vát, thông minh, nhanh nhạy của Eiffel không làm ta ngạc nhiên nếu ta biết rõ nguồn gốc xuất thân của ông: Ông nội của Eiffel từng dựng nên một doanh nghiệp sản xuất thảm rất giầu có tại Pháp, đem lại một đời sống tiện nghi cho nhiều thế hệ trong dòng họ Eiffel.
image
Cha của Eiffel tham gia quân đội Napoléon Bonaparte từ năm 16 tuổi. Mẹ của Eiffel là một phụ nữ rất thông minh tháo vát. Bà có một cái đầu sắc sảo trong buôn bán. Bà không những lo lắng chăm sóc cậu con trai trong việc học hành lúc nhỏ, mà còn tạo dựng nên hai doanh nghiệp lớn, một về cung ứng than và một về cung ứng hàng hoá đường biển, cả hai đều làm ăn phát đạt. Sau này chính bà đã giúp Eiffel tạo dựng nên một doanh nghiệp riêng. Hai mẹ con gắn bó yêu thương nhau suốt đời.
Năm 1862, tròn 30 tuổi, Eiffel thành hôn với cô Marie Guadelet, cháu của Edouard Régneau, một nhà ủ rượu bia nổi tiếng. Hai vợ chồng sống với nhau được 15 năm hạnh phúc, sinh được 5 người con, trước khi Marie mắc chứng viêm phổi rồi mất năm 1887. Đau đớn vì sự ra đi của vợ, Eiffel sống độc thân trong 36 năm còn lại, không hề đi bước nữa.
Trong thời trẻ, Eiffel chiụ ảnh hưởng nhiều nhất bởi hai người: Một là ông chú Jean-Baptiste Mollerat, một nhà hoá học thành đạt, người đã phát minh ra quy trình chưng cất giấm từ thùng gỗ; Hai là Michel Perret, một nhà hoá học khác trong vùng. Cả hai nhà hoá học này dành rất nhiều thời gian chuyện trò với Eiffel, nhồi nhét vào đầu cậu bé hàng đống tư tưởng, từ chuyện hoá học, khai thác hầm mỏ cho tới chuyện tôn giáo và triết học.
Ông chú Mollerat không chỉ là một người đàn ông đáng kính về khoa học, mà còn là một người có tư tưởng cộng hoà mạnh mẽ. Có lần ông nói với Eiffel: "Này con trai, cháu hãy nhớ rằng tất cả bọn vua chúa đều là đồ xấu xa!". Câu nói này có thể gây tổn thương đối với cha mẹ Eiffel, bởi dẫu sao cha Eiffel cũng đã từng phục vụ dưới triều đại Napoléon – vị hoàng đế lừng danh thế giới. Tuy nhiên, tư tưởng của ông chú đã dần dần ảnh hưởng đến Eiffel, biến Eiffel thành một người có thiên hướng cộng hoà. Thiên hướng này đã có dịp biểu lộ rõ rệt khi cậu bé trưởng thành: Eiffel trở thành một đồng tác giả không thể thiếu của Tượng Nữ Thần Tự Do.
Thủa cắp sách tới trường, Eiffel là một cậu bé đặc biệt thông minh và tò mò, nhưng không chuyên cần lắm. Tại trường Lycée Royal (Trung Học Hoàng Gia), cậu cảm thấy các môn học ở đó nói chung nhàm chán, buồn tẻ, không khí nhà trường tù hãm, đến lớp chỉ phí thời gian. Mãi đến hai năm cuối phổ thông Eiffel mới tìm thấy sở thích của mình, nhưng không phải trong các môn kỹ thuật hoặc công nghệ, mà là lịch sử và văn chương! Từ đó Eiffel mới thật sự thích học, kết quả học tập của cậu được cải thiện rõ rệt và cuối cùng Eiffel đã tốt nghiệp trung học xuất sắc trong cả các môn nhân văn lẫn khoa học.
Sau khi tốt nghiệp trung học Eiffel lên Paris, theo học tại Collège Sainte Barbé để luyện thi vào École Polytechnique – trường Đại Học Bách Khoa nổi tiếng thế giới. Nhưng chàng sinh viên bản tính lãng mạn không thể kìm nén được tình yêu say đắm đối với Paris hoa lệ. Anh dành hầu hết thì giờ rỗi để bơi lội trên Sông Seine, thăm Bảo Tàng Louvre, đi xem kịch tại Nhà Hát Opera. Kết quả là anh không chuẩn bị đủ kiến thức cho kỳ thi vào Đại Học Bách Khoa. Anh thi trượt, nhưng không hề lãng phí thì giờ vào việc buồn nản, mà lại thi ngay vào École Centrale des Arts et Manufactures, một dạng trường bách khoa khác, có xu hướng tự do cởi mở hơn, và được đánh giá là một trong những trường đào tạo kỹ thuật và công nghệ hàng đầu Châu Âu thời bấy giờ.
Đến lúc đó Eiffel vẫn tuyên bố hoá học là mục tiêu chủ yếu của đời ông. Ông chú Mollerat cũng hứa sẽ dành cho nhà hoá học tương lai một chỗ làm tại những trung tâm sản xuất giấm của ông ở Dijon. Tuy nhiên, năm 1855, gần đến lúc Eiffel lĩnh bằng tốt nghiệp thì xẩy ra chuyện xích mích giữa cha mẹ Eiffel với ông chú. Hai bên nặng mặt với nhau, hậu quả là lời hứa của ông chú về chỗ làm dành cho Eiffel cũng bị huỷ bỏ, Eiffel phải tìm một định hướng mới cho tương lai.
Người thông minh làm gì cũng thông minh:
Quả là "trong cái rủi có cái may", việc thất hứa của ông chú lại dẫn Eiffel tới một bước ngoặt: Thay vì trở thành nhà hoá học, ông lại kiếm được một chân quản lý dự án xây dựng cầu đường sắt trong công ty kỹ thuật của Charles Nepveu thuộc Hội Kỹ Thuật Dân Sự Pháp. Chẳng bao lâu sau, công ty Nepveu vỡ nợ, một công ty của Bỉ mua lại công ty này, sự nghiệp của Eiffel tưởng chừng gặp cơn bĩ cực nhưng hoá ra lại đến ngày thái lai: Ông chủ mới thuê luôn Eiffel làm việc với tư cách trưởng nhóm nghiên cứu kỹ thuật của công ty.
Tại Việt Nam những năm 1950-1960, một chuyên gia nổi tiếng về kết cấu và nền móng là kỹ sư Phạm Đình Biều thường tâm sự với học trò của ông rằng chuyện "cải nghiệp" của Eiffel dạy chúng ta 2 bài học: Một, người thông minh làm gì cũng thông minh. Hai, người trí thức chân chính và thực sự có tài phải là người có khả năng tự học, tự nghiên cứu. Một nền giáo dục tốt không phải là nền giáo dục chỉ lo nhồi nhét kiến thức hàn lâm cho học trò, mà quan trọng nhất là phải biết gợi mở để học trò say mê môn học, từ đó họ có thể tự học, tự nghiên cứu. Một nhà sư phạm không hiểu điều này sẽ không bao giờ hiểu được tại sao một người được đào tạo thuần tuý về hoá học như Eiffel lại có thể trở thành một kỹ sư kết cấu bậc thầy, không cần qua một trường đào tạo chuyên môn về xây dựng và kết cấu nào cả. Niềm say mê tự học có giá trị gấp hàng trăm lần so với lối học khoa cử chỉ cốt giành giật bằng cấp và danh vọng.
image
Trở lại Eiffel, năm 1858, ông đã tạo nên một "cú" đột phá đầu tiên trong đời: Ông được giao trách nhiệm xây dựng một chiếc cầu bằng thép vượt qua sông Garonne gần thành phố Bordeaux, dài khoảng 500m, và chỉ sau 2 năm công trình đã được hoàn thành mỹ mãn, gây một tiếng vang lớn trong giới chuyên môn cầu cống! Chính trong dịp này Eiffel đã có một phát minh kỹ thuật nổi tiếng – sáng tạo nên Hệ nén thuỷ lực (một hệ thống máy vận hành nhờ nước, hơi nước và khí nén) – cho phép đóng các vật liệu làm nền móng sâu xuống lòng đất tới 25m. Nhờ đó, không những công trình được khánh thành đúng thời hạn mà còn làm cho Eiffel nổi danh như một nhà phát minh và một kỹ sư tài ba.
Năm 1864, lúc này đã có vợ và cư trú tại Paris, với sự giúp đỡ của bà mẹ, Eiffel cho ra đời công ty riêng của mình. Trong 20 năm tiếp theo Eiffel đã phát triển và hoàn thiện hàng loạt phương pháp kỹ thuật mới và áp dụng ngay những phương pháp đó vào trong những công trình của mình. Chẳng hạn, trong khi thiết kế gian đầu tiên cho Palais des Machines (Gian trưng bầy máy móc) của Triển Lãm Quốc Tế Paris năm 1878, Eiffel đã tạo ra những hệ vì kèo và vòm mái thép cứng hơn nhưng lại nhẹ hơn. Cấu trúc mới này có hình dạng như những mạng lưới vừa rất đẹp mắt vừa có sức chịu đựng rất lớn, bất chấp gió bão.
Một trong những dự án lớn của Công Ty Eiffel là xây dựng chiếc cầu Sioule, cao 80m so với mặt sông Sioule, đạt kỷ lục một trong những chiếc cầu cao nhất thời bấy giờ. Dự án này cho phép Eiffel thử nghiệm ba sáng kiến mà sau này ông đã áp dụng vào việc xây dựng Tháp Eiffel: Sử dụng loại thép có chạm trổ thay cho loại thép nặng, giòn, dễ vỡ thường vẫn được sử dụng thời đó. Ông khám phá ra rằng thép chạm trổ cứng hơn, dẻo dai hơn, chịu đựng được những cơn gió mạnh tốt hơn. Ông cho uốn cong bờ mép của những chân cột móng mà trước đó thường là hình vuông hoặc hình chữ nhật, do đó móng được ổn định hơn và bền hơn. Ông phát triển một hệ thống được gọi là "launching" trông như một cái cưa khổng lồ, trong đó sử dụng những bộ phận cân bằng cho phép dịch chuyển các cấu kiện riêng lẻ một cách dễ dàng hơn vào đúng vị trí cần thiết trong công trình.
Cứ như thế, danh tiếng của Eiffel càng ngày càng tăng lên theo danh mục các dự án của ông: Những chiếc cầu lắp ghép làm sẵn cho quân đội hành quân, Cửa hàng Bon Marché nổi tiếng ở Paris, giàn khung Nhà Thờ Đức Bà Paris, và khung thép Tượng Nữ Thần tự Do – công trình tuyệt tác trước khi ra đời Tháp Eiffel huyền thoại của ông.
Tượng Nữ Thần tự Do:
image
Tượng Nữ Thần Tự Do với tên đầy đủ là Tự Do Soi Sáng Thế Giới (La liberté éclairant le monde/Liberty Enlightening the World), là một món quà đặc biệt của nước Pháp dành tặng nước Mỹ nhân dịp kỷ niệm tròn 100 năm ngày nước Mỹ tuyên bố độc lập (thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Anh).
Cách Mạng Pháp 1789 là ngọn cờ thúc đẩy tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái lan rộng ở Pháp rồi ra toàn thế giới trong suốt những năm tháng tiếp theo. Một trong những người Pháp đi tiên phong trong trào lưu này là Édouard René Lefèvre de Laboulaye, một nhà chính trị kiêm nhà văn chuyên viết về lịch sử Mỹ. Chính ông là người đề xuất ý tưởng tặng nước Mỹ một món quà để ca ngợi nền tự do. Ý tưởng của ông lập tức được chính phủ Pháp ủng hộ, và việc thiết kế mỹ thuật được giao cho nhà tạc tượng trứ danh Frédéric-Auguste Bartholdi.
Bartholdi đã thiết kế nên hình ảnh một phụ nữ khoẻ mạnh có nét đẹp kinh điển như những bức tượng Hy Lạp cổ đại với kích thước khổng lồ ở tư thế đứng thẳng, đầu đội vương miện với 7 tia hào quang toả ra tượng trưng cho 7 biển và lục địa trên trái đất, tay trái mang một phiến đá ghi dòng chữ "JULY IV MDCCLXXVI", tức là "Tháng Bẩy, Ngày 4 Năm 1776" (ngày độc lập của Mỹ), tay phải giương cao bó đuốc của tự do, thân mặc tấm áo choàng phủ kín tới chân.
Nhưng ngay lập tức Bartholdi phải đối mặt với 2 bài toán nan giải:
• Làm thế nào để bức tượng khổng lồ có thể tháo rời ra từng bộ phận để chuyên chở sang Mỹ?
• Bức tượng sẽ được dựng trên Đảo Tự Do trong Cảng New York, vậy phải làm thế nào để nó chịu đựng được gió bão rất mạnh ngoài biển Đại Tây Dương?
Người thích hợp nhất có thể giúp Bartholdi giải 2 bài toán hóc búa đó không thể là ai khác Gustave Eiffel!
Tượng Nữ Thần Tự Do trên Đảo Tự Do, Cảng New York, biểu tượng nổi tiếng của nước Mỹ
image
Vào thời điểm này, tên tuổi Eiffel đã được nhiều người biết đến như một công trình sư tài ba từng xây dựng nên những công trình khổng lồ có kết cấu phức tạp và chắc chắn, vì thế ông được mời giúp Bartholdi xây dựng Tượng Nữ Thần tự Do. Ngay lập tức Eiffel hưởng ứng và bắt tay vào việc.
Trước hết, bài toán thứ nhất được giải bằng cách "cắt rời thân thể" Nữ Thần Tự Do ra làm 350 mảnh rồi chất lên chiếc thuyền buồm mang tên Isère để chở sang Mỹ. Tới Mỹ, nó được đưa lên một hòn đảo có tên là Đảo Tự Do (Liberty Island) ở cửa sông Hudson nhìn ra cảng New York (New York Harbour).
Để giải bài toán thứ hai, Eiffel xây dựng một hệ thống cốt sắt làm cốt lõi bên trong để lắp ghép 350 mảnh đồng, tạo nên một bức tượng cao 46m, nặng tổng cộng 204 tấn, đứng trên một bệ cao 45,7m (bệ do người Mỹ xây dựng). Riêng cánh tay giơ bó đuốc đã dài tới 12m, ngón trỏ dài 2,4m, cái đầu tính từ cằm tới vuơng miện cao 5m, riêng cái miệng rộng 1m. Ngày nay du khách tới thăm bức tượng sẽ phải leo 354 bậc thang để lên tới vương miện. Bản thân vương miện là một "gian phòng" rộng với 25 cửa sổ, trông từ xa như 25 viên đá quý cài trên vương miện. Tổng cộng bức tượng bao gồm 31 tấn đồng và 125 tấn thép. Các tấm đồng làm bề mặt bức tượng có chiều dày 2,37 mm, được ghép với nhau sao cho cách ly với khung thép bằng những tấm cách điện để tránh hiệu ứng pin kim loại làm rỉ chỗ ghép do hơi nước biển gây nên.
image
Mặc dù được hai tài năng xuất chúng là Bartholdi và Eiffel phối hợp thực hiện, dự án này vẫn không thể nào hoàn thành kịp thời hạn kỷ niệm 100 năm nước Mỹ độc lập (1876), mà phải đợi tới mười năm sau, tức 1886, Tượng Nữ Thần Tự Do mới được tổng thống Mỹ Groover Cleveland chính thức cắt băng khánh thành.
Trong bài báo "Gustave Eiffel: The Man Behind The Masterpiece" (Gustave Eiffel: Người đứng sau tác phẩm bậc thầy), ký giả Karen Plumley viết: "Eiffel dựng một khung thép để gắn các tấm kim loại vào đó, và đặt nhiều chùm thép thẳng đứng cắm sâu vào trong bệ đá granite của nền móng để giữ cho bức tượng khổng lồ đứng vững. Kết quả là có một bức tượng nhẹ hơn (so với tượng đặc) nhưng vẫn đảm bảo chắc chắn, có khả năng chịu đựng được một tải trọng khổng lồ và hàng loạt tác động khắc nghiệt khác. Một lần nữa, Eiffel đã chứng minh khả năng của ông trong việc giải quyết những bài toán kỹ thuật phức tạp và khó khăn nhất, trong đó sử dụng những kỹ thuật mà trước đó không ai dám làm".
Bách khoa toàn thư Wikipedia cho rằng thiết kế kết cấu của Eiffel là điều kiện không thể thiếu để biến dự án Tượng Nữ Thần Tự Do khổng lồ thành hiện thực.
image
Kể từ 1886, kiệt tác văn hoá này nhanh chóng trở thành biểu tượng quốc gia của nền tự do ở Mỹ, đem lại niềm kiêu hãnh cho người Mỹ, trở thành một tâm điểm thu hút khách du lịch và di dân từ khắp thế giới đến Mỹ, thúc đẩy nền kinh tế ở đây phát triển mạnh mẽ chưa từng có [Một số người Mỹ sống ở Pháp rất hài lòng với món quà mà người Pháp đã dành tặng cho đất nước họ, vì thế họ trả ơn người Pháp bằng cách xây dựng một phiên bản Tượng Nữ Thần Tự Do ở Pháp. Phiên bản này cũng bằng đồng, cao 11m (khoảng ¼ bức tượng ở New York) đã được dựng lên tại hòn đảo Thiên Nga cách Tháp Eiffel khoảng 2km về phía bắc. Tại Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20, cũng từng xuất hiện một phiên bản Tượng Nữ Thần Tự Do với kích thước nhỏ cao 2,85m, dân gian gọi là "Tượng Bà Đầm Xoè", lúc đầu được triển lãm trong Hội Chợ Đấu Xảo Hànội (Cung văn hoá hữu nghị hiện nay), sau được chuyển về Vườn Hoa Chí Linh (vườn hoa trước cửa Ngân Hàng Trung Ương hiện nay), sau đó đã được đặt trên nóc Tháp Rùa, rồi lại chuyển về Vườn Hoa Cửa Nam, cuối cùng bị giật đổ ngày 01-08-1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, vì bị coi là biểu tượng của nhà nước thuộc địa].
Bước sang năm 1887, chưa kịp nghỉ ngơi nhấm nháp vinh quang do Tượng Nữ Thần tự Do mang lại, Eiffel đã gặp cảnh "hoạ vô đơn chí": Vợ ông mắc bệnh nặng và ra đi vĩnh viễn. Nỗi đau chia tay người vợ yêu thương chưa kịp hồi phục thì một tai hoạ thứ hai giáng lên đầu ông, liên quan đến việc làm ăn với Công Ty Kênh Đào Panama của Pháp do Ferdinand de Lesseps lãnh đạo.
Theo hợp đồng ký kết với công ty Lesseps, Công ty Eiffel tiến hành thiết kế và xây dựng những chốt khoá đóng mở cho kênh đào này. Nhưng không may, do quản lý kém, công ty Lesseps bị vỡ nợ, làm trắng tay hàng trăm ngàn nhà đầu tư Pháp. Một cuộc điều tra được mở ra, trong đó tất cả những ai dính líu đến việc sử dụng nguồn vốn đầu tư đều bị luật pháp hỏi thăm, Eiffel không phải là ngoại lệ... Nếu bị kết án, ông có thể sẽ phải đối mặt với một bản án tù ít nhất 2 năm. Nhưng sau 5 năm điều tra, Eiffel được chứng minh là vô can. Tuy vậy, cuộc điều tra đã làm ông mệt mỏi, dẫn tới quyết định về hưu vào năm 1893, khi ông đương chức chủ tịch hội đồng quản trị công ty.
Nhưng trong hoạn nạn mới rõ mặt anh hùng: Chính trong những ngày tháng mệt mỏi nhất vì phải đối mặt với cuộc điều tra, Eiffel đã làm nên công trình huyền thoại của đời mình - Tháp Eiffel!
Huyền thoại Eiffel:
image
Để kỷ niệm 100 năm Cách Mạng Pháp (1789 – 1889), nhà nước Pháp quyết định tổ chức Hội Chợ Triển Lãm Quốc Tế tại Paris vào năm 1889, với một cổng chào kiểu vòng cung khổng lồ bằng sắt thép sẽ được dựng trên Quảng Trường Tháng Ba (Champs de Mars) bên bờ sống Seine, nhằm phô trương sức mạnh công nghiệp và khoa học kỹ thuật của nước Pháp với thế giới. Trong 700 đề án thiết kế dự thi, đề án của Gustave Eiffel được chấp thuận vì nó đẹp nhất, chắc chắn nhất, rẻ nhất.
Khởi công từ giữa năm 1887, khánh thánh giữa năm 1889, Tháp Eiffel trở thành ngọn tháp cao nhất thế giới vào thời điểm đó (324m), trong đó phải huy động tới 300 công nhân lắp ghép 18038 cấu kiện sắt thép với 2 triệu rưỡi đinh rivets.
Lúc đầu, việc xây dựng Tháp bị công chúng phản đối dữ dội, vì bị coi là chướng mắt, kỳ quái, phá hỏng vẻ đẹp truyền thống cổ kính của Paris hoa lệ. Một trong những người phản đối mạnh nhất là nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant. Nhà văn này tuyên bố ông sẽ thường xuyên leo lên Tháp Eiffel để ăn trưa, làm mọi người sửng sốt không hiểu. Khi được hỏi tại sao, Maupassant trả lời: "Vì đó là cách tốt nhất để không nhìn thấy cái chướng mắt do Tháp Eiffel gây ra".
image
Nhưng ngay từ những ngày đầu mở cửa cho khách vào xem, Tháp Eiffel đã thu hút nườm nượp người đến Paris. Riêng năm 1889 đã có gần 2 triệu khách đến tham quan, đạt kỷ lục về du lịch trên thế giới vào thời điểm bấy giờ. Từ đó đến nay Tháp Eiffel càng ngày càng nổi tiếng. Tính đến 2002, tổng số khách du lịch tới thăm kể từ ngày khánh thành đã lên tới hơn 200 triệu người, mang lại cho nước Pháp một lợi nhuận kếch xù, vượt quá mọi dự tính lúc ban đầu. Riêng năm 2006 vừa qua, số khách tới thăm đạt mức kỷ lục: 6.719.200 người, tiếp tục giữ kỷ lục du lịch của các công trình xây dựng trên thế giới.
Nhưng vượt lên trên nguồn lợi kinh tế, Tháp Eiffel đã trở thành biểu tượng kiêu hãnh của nước Pháp nói chung và của Paris nói riêng. Trong thế kỷ 20, rất nhiều tháp khác cao hơn Tháp Eiffel đã được dựng lên trên thế giới, nhưng không có một tháp nào có thể sánh nổi với Tháp Eiffel về vẻ đẹp và sự nổi tiếng. Người Pháp tự hào vì nó, người nước ngoài háo hức muốn được diện kiến nó. Người ta truyền tụng nhau: "Đến Paris mà chưa đến Tháp Eiffel thì cũng coi như chưa đến!".
Vậy mà có một kẻ muốn đánh sập Tháp Eiffel, đó là Adolf Hitler!
image
Ngày 23-08-1944, liệu chừng sẽ phải rút khỏi Paris vì không chống đỡ nổi các mũi tấn công của đồng minh, Hitler ra lệnh cho Dietrich von Choltitz, tổng chỉ huy quân đội Đức tại Paris:"Không được để Paris rơi vào tay kẻ thù, trừ khi nó đã hoàn toàn trở thành một đống gạch vụn!". Nhưng không hiểu sao, Choltitz không tuân lệnh chủ, rút lui khỏi Paris mà không phá huỷ. Tại sao Choltitz hành xử như vậy? Có nhiều giải thích trái ngược. Đây là một dấu hỏi còn bỏ ngỏ của lịch sử.
Lẽ ra thì Hitler cũng chẳng có dịp diện kiến Tháp Eiffel, vì theo kế hoạch ban đầu, Tháp chỉ được phép tồn tại trong 20 năm, nghĩa là đến 1909 sẽ phải tháo dỡ. Thực ra Eiffel đã thiết kế sao cho Tháp có thể dễ dàng tháo dỡ ngay sau khi Hội Chợ Triển Lãm 1889 kết thúc. Nhưng như chúng ta đã thấy: Nó không bị tháo dỡ và đã tồn tại cho đến ngày nay! Tại sao vậy? Đơn giản vì nó đã trở thành niềm kiêu hãnh của nước Pháp, đem lại uy tín khoa học kỹ thuật và ích lợi kinh tế cho nước Pháp vượt quá sự mong đợi.
image
Ngày nay người ta không thể hình dung một Paris không có Tháp Eiffel. Trái ngược với giới văn nghệ sĩ cuối thế kỷ 19, các nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ ngày nay đã lấy Tháp Eiffel làm nguồn cảm hứng để sáng tác. Tháp Eiffel đã trở thành một huyền thoại! Gần đây, nó đã cùng với Tượng Nữ Thần Tự Do lọt vào danh sách 20 công trình cuối cùng được đề cử trong cuộc bình chọn 7 kỳ quan mới của thế giới do tổ chức phi lợi nhuận NOWC (New Open World Corporation) tổ chức (kết quả bình chọn cuối cùng đã được công bố ngày 07-07-2007 tại Lisbon, Bồ Đào Nha).
Trong 30 năm cuối đời, Eiffel sống và làm việc trong cái tháp mang tên ông theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ông đã tìm cách tận dụng chiếc Tháp vào những mục đích mang lại lợi ích thiết thực: Ông xây dựng trạm quan sát thiên văn, phòng thí nghiệm thủy động lực học và phòng nghiên cứu thông tin liên lạc ngay trên các tầng của Tháp. Ông đắm mình trong những phòng nghiên cứu đó, cống hiến hết sức mình cho những nghiên cứu mới lạ cho đến hơi thở cuối cùng. Cũng chính trong những năm tháng này, ông đã thiết kế Cầu Long Biên Hànội, Cầu Tràng Tiền Huế, và Nhà Bưu Điện Sàigòn.
Kết:
Ngày 27-12-1923, Eiffel ra đi một cách nhẹ nhàng tại nhà riêng, thọ 91 tuổi.
Đối với chúng ta, những người Việt Nam, tên tuổi Eiffel sẽ mãi mãi được ghi nhớ không chỉ như một công trình sư lỗi lạc đã để lại cho nhân loại những kỳ đài kiệt tác, mà còn là cha đẻ của những công trình đã trở thành dấu ấn ba miền của đất nước: Cầu Long Biên Hànội, Cầu Tràng Tiền Huế và Nhà Bưu Điện Sàigòn.
Bài viết này xin được thay cho một nén hương tưởng nhớ ông
Những người thua trận
Tạp ghi Huy Phương
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhPk3mNV77JDO6Xi838v8qxslfId06o8hZUyvrQvKDeJ-MP9TKO0EiGpfB_YAgKH8Pbd1yNhL34HhG_K-KJKA6Q9a4uFfgjvaGqMUqauGjZp_ip-Iz3rn1nl0uHhTMQ-eqqEu_RGTJwA20/s1600/NTBH_057_TT_DangXay.jpg
Tượng THƯƠNG TIẾC nơi lối vào nghĩa Trang
Ði Georgia nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi được viếng thăm Stone Mountain Park nơi có hòn núi đá lớn khắc hình ba vị lãnh tụ của miền Nam thua trận trong cuộc nội chiến của Hoa kỳ kéo dài bốn năm từ tháng 4, 1861 đến tháng 4, 1865.



Hình ảnh những người thua trận tại Stone Mountain Park. Từ trái, Tổng Thống Liên Minh Miền Nam Jefferson Davis,Tướng Tổng Tư Lệnh Liên Minh Robert E. Lee và Tư Lệnh Phó Thomas Jackson. (Hình: Huy Phương/Người Việt)
Ðó là hình Tổng Thống Liên Minh Miền Nam Jefferson Davis, Tướng Tổng Tư Lệnh Liên Minh Robert E. Lee và Tư Lệnh Phó Thomas Jackson. Tác phẩm điêu khắc này là do sáng kiến của “Hiệp Hội Những Người Con Gái của Liên Minh” (United Daughters of the Confederacy), khởi công từ năm 1962, sau bao nhiêu trắc trở, được hoàn thành năm 1972. Jefferson Davis chính là vị tổng thống lãnh đạo Liên Minh gồm 11 tiểu bang miền Nam ly khai chống lại chính sách giải phóng nô lệ da đen của Tổng Thống Abraham Lincoln lãnh đạo 25 tiểu bang miền Bắc. Ðược gọi là những người “ly khai,” “phản loạn,” cuối cùng họ vẫn được tôn vinh và tưởng nhớ trong lòng người dân Mỹ. Người thua trận mà cũng được vinh danh hay sao?
Cuộc chiến tranh tương tàn Nam Bắc kéo dài đúng bốn năm thiếu ba ngày, 750,000 quân hai phía và một số lượng thường dân thương vong không kiểm kê được, ước tính số người chết chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam trong độ tuổi từ 18-40.
Bị phong tỏa đường biển, thiếu tiếp vận, nhất là sau sự thất bại của trận Gettysburg tại ngay vùng đất của mình, cuộc nội chiến đẫm máu kết thúc vào ngày 9 tháng 4, 1865 khi Tướng Robert E. Lee, tư lệnh phe Liên Minh, ký nhận đầu hàng không điều kiện ở Appomattox Court House, Virginia, dưới sự chứng kiến của tướng miền Bắc Ulysses S. Grant. Tướng Lee đã an ủi quân sĩ của mình: “Sau 4 năm chiến đấu khó khăn, với sự can đảm và anh hùng chưa từng thấy, binh đoàn Bắc Virginia (của LM miền Nam) bị bắt buộc phải nhượng bộ một lực lượng và hậu thuẫn quá to lớn.”
Các điều kiện đầu hàng được soạn thảo hoàn tất vào khoảng 4 giờ chiều ngày 9 tháng 4. Khi Lee lên ngựa rời nơi ký văn kiện đầu hàng thì binh sĩ miền Bắc không giấu nỗi sự mừng rỡ đã reo hò, nhưng Grant nghiêm khắc ra lệnh ngưng ngay thái độ này. Ông nói: “Những người miền Nam bây giờ là đồng bào của chúng ta, và chúng ta không nên có thái độ đắc chí trên sự suy sụp của họ.” Hiệp ước Appomattox không có điều khoản nào giam giữ, kỳ thị với 200,000 tù binh miền Nam và phe thắng trận thi hành đúng những điều khoản này, sĩ quan thua trận được giữ vũ khí cá nhân của mình và tất cả đã được an lành trở về với gia đình trong sự tôn trọng của phe đối nghịch, được xem như là hiệp ước của những người hào hiệp (The Gentlemen's Agreement). Theo lời yêu cầu Robert E. Lee, quân lính miền Nam được tiếp tục cho giữ lừa ngựa để trở về quê quán giúp họ trong công việc của nông trại, và được quân đội miền Bắc cấp ngay 25,000 khẩu phần lương thực vì những người lính thua trận đang bị đói khát mấy ngày hôm nay.
Trước đó, trong trận đánh nổi tiếng ở Gettysburg vào tháng 7, 1863, sau 3 ngày giao tranh, phe Liên bang miền Bắc chết 3,000 người, phe Liên Minh mất 4,000 người. Tổng thống Abraham Lincoln đã ra lệnh đem cả 7,000 thi hài của cả hai bên để an táng chung một nơi. Ngày 19 tháng 9, 1863, khánh thành nghĩa trang này, Lincoln đã đọc bài diễn văn công bố chiến trường Gettysburg là Nghĩa Trang Quốc Gia. 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hàn gắn vết thương chia rẽ của dân tộc, năm 1990, Tổng Thống William Mc Kinley đã cho thu thập khoảng 30,000 nấm mộ của tử sĩ Liên Minh Miền Nam trong trận Nội Chiến rải rác trong vùng Washington, cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section.
Trước hết chúng ta nhìn lại cuộc đầu hàng miền Nam ngày 30 tháng 4, 1975 tại Dinh Ðộc Lập, Sài Gòn. Theo David Butler, tác giả cuốn The Fall of Saigon (1984), ghi lại tường thuật của phóng viên Neil Davis, một người Úc biết tiếng Việt làm việc cho đài truyền hình NBC của Mỹ, có mặt trong dinh lúc bấy giờ, thì khi xe tăng đã vào sân cỏ, hai bộ đội trẻ là Pham Huy Do và Pham Huy Nghe (ghi tên không có dấu tiếng Việt theo như trong sách), tay ôm súng, chạy vào trong dinh, sau khi kéo cờ Mặt Trận trên nóc, Nghe đi tìm Tổng Thống Dương Văn Minh, vừa chạy vừa quát to:
 “Ai là Dương Văn Minh? Dương Văn Minh hãy bước ra và quì xuống.”
Vừa lúc thì Do dẫn vào bốn chính ủy, một người tự giới thiệu là Trung Tá Bùi Văn Tùng, chỉ huy đoàn chiến xa vào Dinh Ðộc Lập.
Sau này tài liệu của Cộng Sản ghi chép thì Bùi Văn Tùng có nói với Tổng Thống Dương Văn Minh là: “Ông không còn gì để bàn giao...” Nhưng sự thật, theo “Hồi Ký Dang Dở..” của cựu Ðại Tá Dương Hiếu Nghĩa ghi lại lời kể của Cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Binh (nguyên Quận trưởng Gò Vấp) có mặt trong Dinh Ðộc Lập vào giờ ấy, thì:
“Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng mình đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp:
“Thưa quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông.”
Sĩ quan nầy dùng danh từ “mầy tao” xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:
“Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy làm gì có ‘quyền’ nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy đây. Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!”
Cũng với thái độ ấy, y nói với ông Nguyễn Văn Hảo, khi ông này ngỏ ý muốn trao “món quà” 16 tấn vàng cho Bắc Việt:
“Ðó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch thu, mầy hãy trao ngay cho tao đi!”
Ðọc đến đây, thấy vừa buồn vừa nhục!
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh_N98L2gP1jj1SHaH1b6ciWABdrqxy4QLDlMlHruMT6emoynvA8bjd7ZGSmrWxQahdotTAW90jQuhoHV9daSchjieghPvaJTtqpXKm9Ouha9HZhcUKVafGVIUFg5cPR21-TnflJLDApOd2/s1600/DenTuSy1.jpg
Đền Tử Sĩ lúc vừa hoàn thành
Ngày nay chúng ta đã rõ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa và thân phận của người lính miền Nam đã bị đối xử như thế nào. Về người chết thì ngay khi Cộng Sản vào Saigon, ngày 3 tháng 5, Nghĩa Trang Quân Ðội Hạnh Thông Tây, Gò Vấp đã bị bọn Cộng Sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày hôm đó. Về người sống thua trận, thì cũng trong “Hồi Ký Dang Dở,” Ông Dương Hiếu Nghĩa cho biết: “Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn văn Thêm đều bị họ kết án là ‘có tội với nhân dân’ mà không thông qua một tòa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã tấu... Riêng ngôi mộ của Trung Úy Dù Nguyễn Văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.”
Ở đây chúng ta không nói đến nguyên nhân của chiến tranh Việt Nam và cuộc nội chiến tại Mỹ, cũng không thể so sánh nếp sống và tư cách của tướng lãnh Mỹ với tác phong “rừng rú” của “bộ đội cụ Hồ” trong hai câu chuyện kể trên. Chỉ xin mượn lời nhà văn Dương Thu Hương để kết luận cho bài này:
“...Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ!”
Ðọc lịch sử, nhiều khi muốn khóc

Chuyện thật 90%

********************
Có Kiêng Có Lành


Đây là câu chuyện cá nhân, không liên quan gì tới niềm tin Tôn Giáo.


Chuyện xảy ra năm 1979, lúc đó tôi mới ở tù “Cải Tạo” về, chưa lập gia đình, lại phải sống với cộng sản nên niềm tin hãy còn … lơ mơ lắm.


May mắn làm sao khi đi hỏi vợ thì lọt vào một gia đình rất sùng đạo Phật. Mọi chuyện quan trọng liên quan tới  “Quan, Hôn, Tang Tế” đều phải nhờ … Thầy xem ngày giờ kỹ càng rồi mới quyết định


Hồi đó, gia đình vợ tôi tin tưởng tuyệt đối Thượng Tọa Thích Thiện H... (trụ trì tại chuà Pháp Hoa trên đường Công Lý) nên khi xin cưới đã bắt buộc tôi phải tới nhờ ... "Ngài" chọn ngày. Con rể mới, tốt nhất là ngoan ngoãn nghe lời … mẹ vợ nên tôi đành nghiêm chỉnh đến chuà thăm … Thầy


Chuà Pháp Hoa là ngôi chuà … “uy tín” nhất thời đó, rất dễ tìm. Nhiều người còn gọi đó là chùa “Mác-Lê” !!!  do ngay trước cổng có treo hai tấm bảng lớn “Không có gì qúy hơn Độc Lập Tự Do” và “Chủ Nghiã Mác - Lê Nin Vô Địch Muôn Năm” che lấp cả tên chùa, bên cạnh là bức ảnh Hồ Chí Minh vớí nụ cười hiền, trông rất…  “đểu”. Thoạt nhìn cũng hơi nản, nhưng là ngôi chùa duy nhất được … cấp giấy phép hành nghề nên một người mới ở tù ra như tôi cũng thấy … yên tâm một chút !!!
Ít nhất cũng không sợ bị bắt về tội "mê tín, dị đoan"


Tình cờ hôm tôi ghé chùa là vào lúc Chính Ngọ. Ngài … Ngự bắt đầu dùng bữa, nên phải đứng chờ trước sân cùng với cả chục người nghèo đói và các Tăng Ni cấp nhỏ đứng quanh bàn ăn chờ ... Thầy


Bữa ăn của bậc chân tu cũng … có khác:  “Ngài” ngồi thưởng thức một mình , trước mặt "Ngài" là một tô… "Bún Bò Huế" ... chay (?), mấy cái đùi gà rán … chay (?) và một miếng steak to tướng, cũng là đồ … chay (?) ... "nghe” nói chế biến từ … măng và đậu phụ nhưng được gọt, tiả rất công phu, nhìn mà phát thèm vì trông chẳng khác gì đùi gà rán và steak... thật.
Thảo nào, trông dáng Thầy cũng ... phương phi lắm


Sau khoảng 2 tiếng chờ đợi, bưã ăn vừa chấm dứt, chưa kịp dọn bàn là nhóm “bần dân” khốn khổ đã xông đến tranh nhau dành giật thức ăn còn sót lại.


Rồi một nữ phật tử bưng thau nước cho Thầy rửa tay, một nữ nhân khác bưng trà và tăm xiả răng cho Thầy. Dễ thường cũng cả nửa giờ sau Thầy mới quay lại giải quyết công việc cho … thế nhân.


Là “chuẩn” chú rể, tôi ăn mặc trông cũng … đàng hoàng lắm nên được Ngài chiếu cố tới trước nhất:


“Thằng kia, nẫy giờ … mày đứng làm gì mà mắt cứ lom lom nhìn tao ăn ? Muốn Quy Y hả?”

“Chùa  này không còn chỗ cho người quy y đâu!!!”


Khi nghe tôi chỉ muốn hỏi việc chọn "ngày lành tháng tốt" để … cưới vợ, Thượng Tọa cũng chẳng cần đối chiếu tuổi của chúng tôi, vội vã “phán” ngay:


"Cưới với xin gì?... Tháng 9  này kỵ tuổi chồng, tháng 10 kỵ tuổi vợ, tháng 11 kỵ tuổi bố chồng, tháng 12 kỵ tuổi bố vợ, tháng giêng kỵ tuổi mẹ chồng, tháng hai kỵ tuổi mẹ vợ v...v"


Tôi nghe mà hoảng qúa, cứ đà này thì chắc là …ế vợ mất, nhưng vẫn phải xuống nước:


“Thưa Thầy, thế còn những tháng sau nữa thì sao?”


Phải công nhận là “Ngài” rất thông minh, đáp ngay:


“Lại còn sao nữa, muốn chết hả ? mấy tháng sau đó thì kỵ tuổi… mấy con bồ cũ cuả anh,  còn rắc rối hơn nhiều !!!”


Đón tin vui giữa giờ … tuyệt vọng, tôi đành móc ra một món tiền lớn trao tận tay "Ngài" để làm ... Công Quả


Nhìn đống tiền, Thượng Tọa có vẻ cảm động lắm bèn dịu giọng:


"Nếu có lòng thành thì việc đời cái gì cũng có ngoại lệ!  Có thể làm đám cưới bất cứ ngày nào, tháng nào cũng được !!! vì toàn năm nay là năm ... hỷ sự"


Tôi vốn cũng biết một chút về cách xem ngày giờ nhưng thấy ông này … hơi quá, bản tính "nổi loạn" tự nhiên trổi dậy, bèn…tự chọn chọn ngày “xấu” nhất dựa theo lịch Tam Tông Miếu để “thử” xem sao ! Rồi về báo với gia đình vợ, cứ xem như là đã nhờ ... Thầy


Dù sao tôi cũng cảm thấy... hài lòng vì đó là một ngày rất dễ nhớ : 26 tháng 10 Dương Lịch, Lễ Quốc Khánh thời Đệ Nhất Cộng Hoà


Ngày “xấu” thế mà chúng tôi vẫn sống với nhau tới hôm nay, chưa hề một lần to tiếng


Cũng xin thú thật là tính tới hôm nay, tôi đã mua nhẫn cưới … tất cả 7 lần, vì các cặp vợ chồng trẻ sau này trước khi cưới đều đến xin cặp nhẫn của chúng tôi đang đeo để … cầu phước. Và tới nay họ vẫn sống tốt đẹp.


Xin xác nhận cho rõ là mua tới 7 cặp nhẫn cưới nhưng vẫn chỉ … một bà


Hoá ra việc đời, nhiều khi cứ tự quyết định lấy lại tốt hơn


Chúng tôi lấy nhau được mấy năm, khi ông thân sinh cuả bà xã mất, tôi lại được gia đình cử tới chuà Pháp Hoa nhờ vị Thượng Tọa này tới đọc kinh cầu siêu và xem hướng đặt mộ


Đã biết mặt tôi, nhất là biết là tôi vẫn chưa … bỏ vợ, Thầy có vẻ vui lắm, nói chắc như đinh đóng cột gỗ … mục:


“Nếu không nhờ tôi chọn ngày, anh chị chắc chắn đã … lỵ dị rồi!!!”

Sau thủ tục...nhận tiền, "Ngài" cho phép tôi được đi ké trên chiếc Toyota riêng mới toanh tới tận "tang gia" để làm lễ và không quên mang theo chiếc casstte trong có băng "Kinh Cầu Siêu" thâu sẵn


Vừa đúng giờ “lành” không sai một phút, Thượng Tọa cất giọng trầm buồn:
"Bây giờ tất cả các con qùy xuống để Thầy làm lễ cầu cho hương hồn người quá cố được... Phiêu Diêu Miền Cực Lạc" 


 Mọi người qùy xuống im phăng phắc. Phường Bát Âm cũng im bặt, Thầy trịnh trọng thò tay bấm nút.  Trong bầu không khí thiêng liêng, nghe được cả tiếng ruồi vo ve trên các mâm cỗ, bỗng dưng có tiếng hát Khánh Ly phát ra từ chiếc cassette:
 “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn….
Đôi khi lầm lỡ…đánh mất ân tình cũ …”


Hoá ra tại đêm trước, Thượng Tọa … “xỉn” qúa, nằm nghe nhạc tình rồi quên đi, sáng ra chưa kịp thay lại cuốn băng… Kinh cầu siêu

Cũng may cho Thầy, mọi người đều còn đang ... bỡ ngỡ thưởng thức Nhạc Vàng, chưa kịp phản ứng gì thì bỗng nhiên có tiếng khóc bi ai:

“Ối ông ơi, ông đi bỏ lại mẹ con tôi …bơ vơ …”


Tôi quay nhìn lại thì thấy một bà tương đối còn trẻ mặc tang phục, tay dắt theo hai đứa con.


Hoá ra đây là … bà vợ hai mà trước đó tôi cũng có nghe phong phanh. Bà Hai  khóc một lúc rồi … ngất đi


Bà Cả, mẹ vợ tôi thấy thế thì thương cảm lắm, quên hết mọi chuyện ghen tương, hét người đưa Bà Hai vào nhà ... đánh gió. Rồi từ đó "hai chị em" đem tình thương … xoá bỏ hận thù


Quả thật Bà Hai đã cứu … vị Thượng Tọa một bàn thua trông thấy!


Nhưng trước khi ra cửa, Ngài còn lẩm bẩm … gỡ gạc:


“Nuôi mấy thằng ăn hại trong chùa, đúng là … nuôi ong tay áo. Suốt ngày chỉ rượu với gái! Đã bảo chúng nó mỗi khi nghe nhạc xong, phải “check” lại cẩn thận mà cũng làm không nên thân”


Rồi Thượng Tọa nhìn tôi:


“Thiện Tai ! Thiện Tai ! Con thấy đấy, Có Tin thì … Có Lành !!! Oán thù nên cởi chứ không nên buộc. Nếu  không nhờ Thầy xem giờ”tốt” thì hai bà còn ghen tuông tới bao giờ ?”
NHH(Nghiêm Hữu Hùng)
 Tôn Giáo là thế lực khả thi nhất làm suy yếu dẫn đến sụp đổ chế độ Công Sản trong tương lai.nên tất cả mọi hành động làm suy yếu hay chia rẽ các tôn giáo trong lúc này chỉ làm lợi cho Cộng Sản vì thế những tin thông tin đaị lọai như cuả Lữ Giang Hay Liên Thành xin được truy cứu và đón nhận một cách cẩn trọng.nếu đặt câu hỏi thế lực naò sẽ có lợi nhất ? .từ đâu họ có những tin tức và taì liệu chi tiết như thế ? để chúng ta có thể nhận ra diện mạo thế lực chỉ đạo và hậu thuẫn đứng đằng sau họ ..

---------
Bài 2: Hành tung bí ẩn của một vị sư

Lữ Giang

Trong bài trước chúng tôi đã trình bày qua lý lịch của Hoà Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, với nhiều bí ẩn về gia tộc, vợ con và con đường hoạt động chính trị của ông. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn con đường dẫn ông đến với Đảng Cộng Sản, chuyện ông xuất gia để phục vụ Đảng, áp lực đưa ông về ngồi chổm chệ giữa Sài Gòn, “tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á”, hoạt động của Việt Cộng trong Viện Đại Học Vạn Hạnh, sự lộ diện của ông ngày 30.4.1975, chuyện ông gặp lại vợ con, chuyện ông đưa GHPGVNTN vào cửa tử và “những ngày vinh quang” của ông. Đây là những chuyện rất ly kỳ.
CÂU HỎI THỨ NHẤT
Một câu hỏi được đặt ra là Pháp biết Hoà Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc Trường An Nam Phật Học, đã vào Đảng Cộng Sản năm 1941, Đinh Văn Nam (tức Thích Minh Châu) và Võ Đình Cường năm 1943, tại sao họ không bắt?
Như chúng tôi đã chứng minh trong cuốn “Những bí ẩn đàng sau cuộc thánh chiến tại Việt Nam” xuất bản năm 1994, vào thập niên 1930, Toàn Quyền Pasquier đã đưa ra chủ trương thành lập các phong trào thể thao và “Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo” để vô hiệu hóa các cuộc nổi dậy chống Pháp. Nhiều viên chức cao cấp đã được Pháp giao cho thực hiện công tác này như Trần Nguyên Chấn ở Nam kỳ, Lê Đình Thám ở Trung kỳ và Lê Dư ở Bắc kỳ. Ngoài ba nhân vật chính này, còn rất nhiều viên chức khác tham gia như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Đỗ Mục, Dương Bá Trạc... Thiền sư Nhất Hạnh và nhiều nhân vật Phật Giáo đã công nhận đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo Việt Nam. Biết rõ chủ trương của Pháp, Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng dựa vào Phật Giáo để xây dựng các cơ sở Đảng.
Sở dĩ mật thám Pháp biết Hòa Thượng Trí Độ, Đinh Văn Nam và Võ Đình Cường vào Đảng Cộng Sản nhưng không bắt vì lúc đó Pháp muốn dùng lực lượng của Cộng Sản để chống Nhật. Nhiều cán bộ cao cấp của Cộng Sản bị bắt đã được thả ra.
Chúng tôi xin nhắc lại rằng năm 1944, Hoa Kỳ đã phối hợp với Pháp và chính phủ Tưởng Giới Thạch, thành lập một toán do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa từ Liễu Châu về Pác Bó. Toán này được huấn luyện và trang bị vũ khí để chống Nhật. Nhờ vậy, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Việt Minh đã cướp được chính quyền ở Hà Nội vào tháng 8 năm 1945.
CÂU HỎI THỨ HAI
Bác sĩ Lê Đình Thám, Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học, người dẫn dắt Đinh Văn Nam và Võ Đình Cường, đã vào Đảng năm nào mà sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu V từ 1946 đến 1949?
Quả thật, Bác sĩ Lê Đình Thám đã giấu tông tích của ông rất kỷ, ông lại là người được Pháp giao nhiệm vụ “Phật giáo hóa” tại Trung kỳ, nên mật thám Pháp không nghi ngờ gì về ông. Dĩ nhiên, ông phải là đảng viên cao cấp mới được Đảng Cộng Sản cho giữ một chức vụ quan trọng như vậy. Lần theo những bước chân của ông, chúng ta có thể tìm ra con đường Thích Minh Châu đã gia nhập vào Đảng Cộng Sản.
CON ĐƯỜNG THÍCH MINH CHÂU ĐI
Bác sĩ Lê Đình Thám sinh năm 1897 tại Quảng Nam, tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Y Khoa Đông Dương Hà Nội năm 1916. Năm 1932, ông thành lập Hội An Nam Phật Học tại Huế, trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm. Bên ngoài ông thuyết giảng và truyền bá Phật Giáo, nhưng bên trong hoạt động cho Cộng Sản.
Đinh Văn Nam (Thích Minh Châu) và Võ Đình Cường là hai “đệ tử ruột” của Bác sĩ Lê Đình Thám, nên thầy đi đâu, trò theo đó. Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay của báo trong nước đã nói rất rõ: Phong trào học Phật do Bác sĩ Lê Đình Thám tổ chức có "nhiều trí thức yêu nước
...


[Thư đã được cắt bớt]  Xem toàn bộ thư
Money can not buy you class...neither can living in the White House.jpgMoney can not buy you class...neither can living in the White House.jpg
74K   Xem   Tải xuống  
Formal dinner at the White House.jpgFormal dinner at the White House.jpg
54K   Xem   Tải xuống  
image.jpegimage.jpeg
56K   Xem   Tải xuống  
YouTube - Video từ email này