Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

Thích thú với cà phê vỉa hè ở Sa Pa

Chỗ ngồi như một vỉa hè, lại còn lủng lẳng bắp ngô, hoa chuối và các bề tường thì chi chít những dòng chữ đủ sắc màu…

Quán chỉ cách khách sạn tôi ngụ lại hơn chục bước chân, thế nhưng tôi chẳng hề biết được sự tồn tại của Sapa Coffee Corner cho đến cận ngày về.
Tôi nhận ra sự có mặt của quán khi nghe một giai điệu quen từ một đĩa nhạc mà tôi rất thích. Dòng nhạc này thường chỉ mở trong các quán cà phê hi-end với những thiết bị trang âm trong phòng kín. Vậy mà ở đây, giữa ngã tư lắm người tản bộ, giữa những con dốc thấp cao và miên man sương mù, tiếng nhạc vẫn khá ấm áp, du dương. 


Với người lữ khách là tôi thì thứ âm thanh quen thuộc kia còn làm ấm lòng, giữa chiều muộn của Sa Pa sương giá.
Tôi chọn một góc bàn nhỏ, có chân được làm từ một bánh xe hơi và chỗ ngồi là những cái đòn thấp. Thật ra, ở đây không có nhiều sự lựa chọn. Hoặc bạn sẽ ngồi lộ thiên ở dãy bàn dưới tán ô như một vỉa hè, hoặc sẽ ngồi bên trong với những bức tường nhiều “phụ kiện” như nhà một người H’Mông sung túc. 


Từ “vỉa hè” tôi có thể quan sát được mặt tiền quán. Bên dưới mái tranh úa màu có vô số những món đồ đặc trưng của Tây Bắc. Có gánh trái cây miền ôn đới, có hoa chuối rừng đỏ tươi, có những giò lan quý hiếm, có bí ngô và bắp ngô lủng lẳng bên khung cửa. Một quang cảnh thật vui mắt!
Không khó để tôi gặp Peter, chủ nhân của nơi này. Anh vốn là người Tràng An nhưng có nhiều năm du học ở nước ngoài nên có ngoại hình, và lối nói chuyện rất “Tây”. Peter kể, anh tốt nghiệp ngành xã hội, hiện đang làm việc cho một tổ chức phi chính phủ. Vì quá yêu con người và vùng đất này nên anh mở quán, cốt là để tìm cớ ở lại Sa Pa.

Coffee Corner ra đời như thế, với ý tưởng mang café vỉa hè của Hà Nội đặt vào không gian đa sắc của vùng cao. Thế rồi cái vẻ ngồ ngộ, xinh xinh của nơi này nhanh chóng trở thành điểm đến thường xuyên của các cánh hướng dẫn viên, của văn nghệ sỹ và của những vị khách Tây Tàu.
Peter đã châm thêm mấy tuần trà nhưng câu chuyện về các bản làng, về các địa danh, về lớp Anh văn anh dạy các em nhỏ… vẫn chưa dứt. Cứ huyên thuyên như những người bạn thân.


Trà ngon, nhạc ấm, khách thân tình, đêm ở vùng cao mới chớm đông đã lạnh buốt, với người quen sống ở phương Nam ngập nắng. Peter đi nhóm lò than, vừa để tôi sưởi ấm, vừa để nướng ngô, khoai.
Nhạc vẫn dặt dìu, sương vẫn lãng đãng và trà vẫn ngát hương, nhưng tôi phải về! Về để giữ chút tiếc nuối, luyến lưu với Sa Pa và mong ngày trở lại. Từ nay tôi có thêm một địa điểm, trên bản đồ du lịch của riêng mình.

                                                                                                                               http://sapacafe.vn

Thứ Tư, 11 tháng 1, 2012

Quan niệm Chính danh của Nho Gia

Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và Trung Quốc là những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Một trong những tư tưởng triết học Phương Đông thời đó mà ý nghĩa của nó vẫn còn giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, siêu hình, chính trị - xã hội đó là những tư tưởng triết học của Nho Gia. Trong bài này tôi xin được đề cập đến ba vấn đề sau :
      1. Bối cảnh ra đời học thuyết Chính danh
      2. Học thuyết Chính danh một sáng kiến của Khổng Tử
      3. Nội dung của học thuyết Chính danh
      4. Nhận định và phê bình về thuyết Chính danh  
                                                                             
           Nho Gia xuất hiện vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên, dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (1551 tr. CN – 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho Gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau; duy tâm và duy vật trong đó dòng Nho Gia Khổng Tử và Mạnh Tử có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
1.   - Bối cảnh ra đời học thuyết Chính danh
Khổng Tử sinh thời của ngài thường nói với học trò rằng “(Ngô) thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”[1] nghĩa là : Ta chỉ thuật lại mà không trước tác, tin vào đạo lý đời xưa. Các nhà nghiên cứu về Nho Gia và Khổng Tử ngày nay đều cho rằng, trong các tác phẩm như Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu, Luận Ngữ… thì chỉ có quyển Luận Ngữ được xem là đáng tin cậy nhất[2] vì những lời phát biểu của Khổng Tử trong sinh thời mà phần lớn là đàm thoại với học trò của ngài. Do đâu mà Khổng Tử đề ra học thuyết Chính danh?
Trong thời đại của mình, Khổng Tử nhận thấy tình trạng rối ren, phức tạp của xã hội phong kiến thời Chu. Xã hội mà tôn ti trật tự bị rối ren, đảo lộn. Ngài lấy làm tiếc cái thời đầu nhà Chu như Chu Võ Vương, Chu Công… sao mà thời đại tươi đẹp, phong hóa tốt tươi đến thế! Ngài nhìn thấy tình cảnh “Tôi thí vua, con giết cha không phải nguyên nhân của một sáng một chiều”[3]. Mọi sự việc, nguyên nhân đều có cái cớ của nó. Mà cái cớ này không tự dưng mà có mà nó được tích lũy dần dần qua thời gian mà đến một thời điểm nào đó, chúng ta tạm gọi đó là điểm nút thì sẽ xảy ra kịch tính như trên. Kinh dịch có câu “Đi trên sương mà băng giá tới” (Lý sương kiên băng chí) là thuận với lẽ diễn tiến tự nhiên của mọi sự vậy.
Khổng Tử thấy tình trạng xã hội thời ngài hỗn loạn đến nỗi “Tôi giết vua, con giết cha” là tệ hại lắm rồi, nhưng ngài là người không thích bạo lực, không thích làm cuộc thay đổi triệt để để triệt tiêu cái tệ trên bằng bạo lực cho nên ngài mới đề ra học thuyết Chính danh nhằm để cải tạo xã hội, giáo hóa xã hội dần dần. “Ông nghĩ rằng muốn cho xã hội có trật tự, thì trước hết phải Chính danh, mỗi cái danh bao hàm một số điều kiện tạo nên bản chất một loại sự vật mà danh liên quan đến. Bản chất của ông vua là những điều kiện lý tưởng mà ông vua phải có, nghĩa là những điều kiện hợp với “vương đạo”. Hành động theo vương đạo thì ông vua mới thật là vua, ông vua vừa hợp với thực vừa hợp với danh. Như vậy là có sự phù hợp giữa danh và thực. Nhưng nếu ông vua không hành động theo vương đạo, thì không phải là vua nữa, mặc dầu dân chúng vẫn coi là vua. Những tương quan trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn phận nào, và những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn phận phù hợp với danh ấy. Đó là ý nghĩa thuyết chính danh của Khổng Tử”.[4]
2.    - Học thuyết Chính danh, một sáng kiến của Khổng Tử
Hầu hết các nhà Nho, các nhà nghiên cứu về Nho Gia và Khổng Tử đều thừa nhận rằng học thuyết Chính danh là một sáng kiến mới của Khổng Tử. Do chính ngài quan sát thấy được tình trạng lộn xộn, mất tôn ti trật tự, trên cho ra trên, dưới cho ra dưới ; vua cho ra vua, tôi cho ra tôi,… nên ngài mới đề ra học thuyết Chính danh. Thực chất, học thuyết Chính danh không những chỉ có giá trị ở thời ông. Nói theo cách của học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết lời mào cho cuốn Khổng Tử đã phát biểu rằng : “Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó có giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các đời sau không. Và nếu sau mười thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi.”
3.      -  Nội dung của học thuyết Chính danh
Các nhà nghiên cứu về Nho Gia và Khổng Tử đều trích dẫn một số câu vấn-đáp của thầy trò Khổng Tử trong Luận Ngữ, Thiên Tử Lộ vì cho rằng đó là câu chìa khóa của học thuyết Chính danh. Tôi cũng xin chép ra đây để tham khảo.
“Tử Lộ viết : Vệ quân đãi Tử nhi vi chính, Tử tương hề tiên?
Tử viết: Tất dã chính danh hồ!
Tử Lộ viết : Hữu thị tai, tử chi vu dã, hề kỳ chính?
Tử viết: Dã tai Do dã! Quân tử ư kỳ sở bất tri, cái khuyết như dã. Danh bất chính tắc ngôn bất thuận. Ngôn bất thuận tắc sự bất thành. Sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng. Lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng. Hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc. Cố quân tử danh chi tất khả ngôn dã. Ngôn chi tất khả hành dã, quân tử ư kỳ ngôn vô sở cẩu nhi dĩ hỹ.”[5]
Nghĩa là : Tử Lộ hỏi : Nếu vua nước Vệ mời thầy về giúp cai trị nước, thầy làm gì trước?
Khổng tử đáp : Tất phải lấy chính danh làm trước vậy!
Tử Lộ hỏi : Có việc ấy sao? Thầy vu khoát lắm! Thế nào gọi là chính danh?
Khổng Tử đáp: Anh Do quê mùa này! Người quân tử có điều gì mình không biết thì bỏ qua mà không nói. Nay danh bất chính tất lời nói không thuận. Lời nói mà không thuận tất việc chẳng thành. Việc chẳng thành thì tất lễ nhạc không hưng thịnh. Lễ nhạc không hưng thịnh thì tất hình phạt chẳng đúng phép, hình phạt mà không đúng khuôn phép thì tất dân không biết đặt tay chân vào đâu để nhờ cậy. Cho nên người quân tử quan niệm được danh ắt nói ra được, mà nói ra được tất làm được. Người quân tử nói ra điều gì nên dè dặt không cẩu thả được!
Học giả Nguyễn Hiến Lê viết trong Hồi Ký của mình rằng : “Thuyết chính danh của ông (Khổng Tử) đẻ ra thuyết giết một bạo chúa là giết một tên thất phu của Mạnh, bắt bọn cầm quyền phải có đức, phải thương dân; ông điều chỉnh lại quyền lợi, nghĩa vụ của vua tôi; ông lại đào tạo một giai cấp mới : Kẻ sĩ để trị nước, thay thế bọn quý tộc thiếu tài, thiếu đức, giai cấp đó đa số sống ở trong giới bình dân, địa chủ mới và thương dân mà ra.”[6]
Học thuyết chính danh của Khổng Tử không chỉ chỉ được áp dụng trong chính trị, cai trị mà còn được ông áp dụng trong cách gọi tên sự vật, đồ vật. Sách Nho Giáo có câu chuyện về cái bình đựng rượu được gọi là cái “cô”. Thời trước Khổng tử, cái bình đựng rượu có cạnh góc người ta gọi là cái “cô”. Đến đời Khổng Tử, người ta làm cái bình đựng rượu bỏ cạnh góc đi mà vẫn gọi là cái “cô”, Khổng Tử không hài lòng về tên gọi này vì theo ông, nếu cái bình đựng rượu muốn được gọi là cái “cô” thì phải phục hồi hình dạng cũ của nó. Còn nếu không thì gán cho nó một cái tên mới mà không gọi là cái cô nữa. (Khổng Tử, Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Hóa 1995).
Qua hai dẫn chứng trên chúng ta thấy Khổng Tử rất coi trọng tôn ti, trật tự, trên dưới, mà tư tưởng này đã có trước thời Khổng Tử rồi. Nó bị biến dạng dưới thời ông, do đó, ông xiển dương học thuyết Chính danh để sửa trị lại trật tự xã hội, sự cai trị. Đặt sự vật với đúng tên gọi của nó (trường hợp cái “cô”).
Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết là thực hiện “Chính danh”. Mỗi cái danh đều mang trong nó những điều kiện bản chất mà vật mang danh ấy phải thực hiện cho đúng. Trong xã hội vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, … Đó là ý nghĩa thuyết chính danh của Khổng Tử. Sau này các triết gia Trung Quốc đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển nó dựa trên nền tảng mà ông đã đưa ra.
Mặc Tử có quan niệm khác về danh và thực. Nếu Khổng Tử đưa ra sự phù hợp giữa danh và thực theo nghĩa mang danh nào thì phải có tính chất đúng với cái danh ấy thì Mặc Tử lại có quan điểm “thủ thực dữ danh”, tức là phải dựa vào sự vật và hành vi trong tồn tại mà đặt tên. Phát triển quan điểm đó Mặc Tử còn đưa ra ba tiêu chuẩn (tam biểu) để đi tìm cái đúng : căn cứ vào những kinh nghiệm của các thánh nhân đời xưa, căn cứ trên kinh nghiệm của bách tính, và căn cứ trên sự xác nhận của thực tiễn khi đem một chính sách ra dùng.
Tuân Tử thuộc Nho Gia kế thừa học thuyết của Khổng Tử kết hợp với những thành quả của Mặc Gia đã thành lập một hệ thống lý luận khá chặt chẽ, làm nền tảng cho sự diễn tả thuyết chính danh Nho học của ông.
4.      - Nhận định và phê bình về thuyết Chính danh.     
Học thuyết Chính danh do Khổng Tử sáng kiến cách đây hơn 2.500 năm từ thời Trung Quốc còn đang ở chế độ phong kiến phân quyền với lòng mong muốn của ông phục hồi lại chế độ, lễ lạc tốt đẹp của thời nhà Chu ban đầu khi ông nhận thấy tình trạng xã hội khá lộn xộn, mất tôn ti trật tự. Ông vốn là người khoan hòa, tuy có tư tưởng cách mạng nhưng không thích chiến tranh, do đó ông mới đề ra học thuyết Chính danh để cải tạo xã hội một cách dần dần.
Theo cách nói của học giả Nguyễn Hiến Lê thì “Nếu sau mười thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi.” Chính danh là làm việc không mờ ám, không che dấu sự thật hoặc bóp méo sự thật. Thiết nghĩ rằng, chúng ta còn phải tiếp tục nêu cao chính nghĩa, nêu cao những tấm gương người tốt, việc tốt tiêu biểu để thu phục được lòng tin của nhân dân. Triết học Trung Hoa cổ, trung đại là một bộ phận quan trọng của triết học phương Đông, trong đó có thể nói Nho Gia là một trường phái quan trọng và có giá trị vào loại bậc nhất. Mặc dù ra đời để phục vụ cho chế độ phong kiến nhưng đến nay nhiều tư tưởng, quan niệm về xã hội, con người, đạo đức, giáo dục,… của Nho Gia vẫn còn giá trị và mang tính thời sự, như tư tưởng nhân nghĩa và học thuyết Chính danh. “Nhân nghĩa” có ý nghĩa trong mọi mặt của đời sống, nhưng “Chính danh” lại tác động sâu sắc tới việc đảm bảo trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là ở lĩnh vực chính trị.
“Chính danh” theo Khổng Tử đề xướng là một nguyên tắc cai trị xã hội, được hiểu là : một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang, có nghĩa là đảm bảo sự phù hợp giữa cái danh và cái thực. Đây là một học thuyết có giá trị không chỉ trong thời phong kiến mà cả trong thời hiện đại. Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết là thực hiện “Chính danh”. Mỗi cái danh đều mang trong nó những điều kiện bản chất mà vật mang danh ấy phải thực hiện cho đúng. Trong xã hội vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, … Đó là ý nghĩa thuyết Chính danh của Khổng Tử. Sau này các triết gia Trung Quốc đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển nó dựa trên nền tảng mà ông đã đưa ra. Người nào cũng phải công nhận rằng học thuyết Chính danh là một sáng kiến của ông và đó là sự đóng góp quan trọng của ông cho Trung Quốc nói riêng và nhân loại nói chung.
Tuy nhiên bên cạnh đó học thuyết Chính danh cũng có một số hạn chế đó là lối sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Trong gia đình, người cha, người chồng, người anh cả là người có quyền lực cao nhất, người phụ nữ trong gia đình bị phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, không có quyền tham gia vào những việc đại sự trong gia đình. Đặc biệt đạo “tam tòng” (Tại gia tòng phu, xuất gia tòng phụ, phu từ tòng tử), (ở nhà thì phải nghe theo cha, đi lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con) đã trói buộc người phụ nữ họ không có quyền tự chủ quyết định cuộc đời và tương lai của mình.
Ở Việt Nam, học thuyết Chính danh cũng như Nho giáo nói chung đã góp phần hình thành nên hệ thống tư tưởng triết học mang đậm bản sắc dân tộc. Trong khi các nguyên tắc cai trị xã hội của Nho giáo Trung Hoa có phần cứng nhắc và hà khắc thì ở Việt Nam thấm sâu tình nhân ái và lòng yêu nước được đặt lên hàng đầu.
Nói tóm lại thuyết chính danh cũng như Nho giáo có vai trò quan trọng trong nền triết học cổ, trung đại Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung. Và thuyết Chính danh nguyên thủy do Khổng Tử đề xướng là nền tảng để các nhà Khổng giáo đời sau phát triển cho phù hợp với xã hội Trung Quốc luôn biến chuyển góp phần ổn định trật tự xã hội. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1/ Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương, Hồ Thích, bản dịch của dịch giả Minh Đức, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2004.
2/ Khổng Tử của học giả Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Hóa 1995.
3/ Nho Giáo Quyển Thượng của cụ Trần Trọng Kim, Trung Tâm Học Liệu xuất bản 1971.
4/Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc, Phùng Hữu Lan, bản dịch của dịch giả Nguyễn Văn Dương, NXB Thanh Niên.
5/ Lịch Sử Triết Học Phương Đông tập I của học giả Nguyễn Đăng Thục, NXB TP. Hồ Chí Minh 2001.
6/ Nho Giáo Trung Quốc của nhà nghiên cứu Nguyễn Tôn Nhan.
7/ Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học tái bản lần VI 2006.
8/ Tứ Thư, Đoàn Trung Còn dịch, NXB Thuận Hóa 2006.


[1] Luận Ngữ, thiên Thuật, Đoàn Nhi (rút ra từ tập Tứ Thư Trung Còn dịch, NXB Thuận Hóa 2006).
[2] Học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết về Khổng Tử thì chỉ dùng bộ Luận Ngữ mà thôi.
[3] Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương, Hồ Thích, Minh Đức dịch, NXB Văn Hóa Thông Tin 2004, tr.156.
[4] Sđd tr. 57
[5] Luận Ngữ, Thiên Tử Lộ trong bản in Tứ Thư của dịch giả Đoàn Trung Còn, NXB Thuận Hóa 2006, tr. 196-198.
[6] Xem Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học 2006 tái bản lần thứ 6, tr.722.
                                                      
                                                                                                                                        Paul Alex

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012

Đạo đức học của Plato và ảnh hưởng của nó trên các trường phái triết học

Học thuyết đạo đức của Plato đã chống lại học thuyết hoài nghi của các nhà ngụy biện, ông nêu lên khái niệm của Socrates “Tri thức là đức hạnh” và khai triển khái niệm này bằng cách thêm vào hai yếu tố chính đạo đức học cá nhân và xã hội : chúng ta sẽ lần lượt xem xét hai yếu tố này.
                                                                     
1.    Đạo đức học cá nhân

1.1  Plato nói về đạo đức học cá nhân trong ý tưởng về linh hồn
Plato mô tả linh hồn gồm có ba phần : lý trí, tinh thần và dục vọng[1]. Trước hết có sự ý thức về mục tiêu hay giá trị, đây là hành vi của lý trí. Kế đến có một lực thúc đẩy hành động, đó là tinh thần, ban đầu mang tính trung lập, nhưng rồi ngả theo đường hướng của lý trí. Sau cùng, có ham muốn về những điều của thân xác, đó là dục vọng. Như ông đã minh họa trong quyển Phaedrus như sau :  “Người đánh chiếc xe có hai con ngựa kéo, một con là ngựa tốt, không cần roi vọt gì cả. chỉ cần anh đánh xe nói và hướng dẫn là đi đúng đường. Còn con kia là ngựa xấu, ngang ngược và bất kham … dùng roi vọt cũng không trị nổi nó. Mặc dù anh đánh xe biết rõ mình phải đi đâu và con ngựa tốt đang chạy đúng đường, nhưng con ngựa xấu lồng lên và chạy loạn xạ, gây đủ thứ rắc rối cho con ngựa bạn và anh đánh xe. Cảnh hai con ngựa chạy theo hai hướng nghịch nhau và anh đánh xe thất vọng đứng nhìn vì con ngựa không nghe theo lệnh của anh, đánh động mạnh trí tưởng tượng của chúng ta, vì nó cho thấy rõ sự phá vỡ trật tự. Người đánh xe, vì là người cầm cương ngựa, có bổn phận, quyền và chức năng hướng dẫn điều khiển hai con ngựa. Cũng vậy, phần lý tính của linh hồn có quyền điều khiển phần tinh thần và phần dục vọng. Hiển nhiên anh đánh xe không thể đi đâu nếu không có hai con ngựa, vì vậy cả ba phải liên kết với nhau và làm việc chung với nhau để đạt các mục tiêu chung”[2]
Đối với Plato, đức hạnh bị trói buộc theo lý thuyết về bản chất tự nhiên của vũ trụ. Ông cho rằng, thế giới của nhận thức là điều hão huyền, biến đổi và phù du. Đây chính là cái ác. Một thế giới trần tục tinh khiết, những mẫu mực lý tưởng không thay đổi là một thế giới của cái thiện. Con người chỉ có thể hiểu được thế giới trần tục này thông qua sự nhận thức. Do đó, sự nhận thức là cái thiện hoàn hảo nhất đối với con người. Mục đích hay mục tiêu của cuộc sống là giải thoát linh hồn khỏi thể xác để có thể suy gẫm về ý tưởng của thế giới đích thực. Nhưng con người có thể sống một cuộc sống chính đáng, dù bị kiềm giữ trong thể xác và giữ nguyên những tàn dư vật chất thay đổi trên thế gian. Plato cho rằng, điều này có thể thực hiện được, miễn là phần lý trí của con người quyết định mọi hành động của họ. Con người gồm có ba phần. Sự thèm muốn của con người có liên quan đến chức năng và ham muốn của thể xác. Phần ý chí hoặc tinh thần được cho là do hành động, lòng can đảm và sự dũng cảm của con người. Lý trí được coi là phần cao cả nhất, tốt đẹp nhất của con người. Một người sống một cuộc sống tốt đẹp là khi lý trí quyết định sự mong muốn, nguyện vọng và sự thèm muốn của người đó, và kết quả là người đó trở thành một con người khôn ngoan, ôn hòa và dũng cảm. Do đó, một cuộc sống có lý trí là cái thiện cao cả nhất của con người, đó là một cuộc sống chú ý đến sự khôn ngoan, can đảm và biết làm chủ bản thân. Theo Plato, kiểu sống này sẽ là một cuộc sống hạnh phúc. Niềm hạnh phúc và cái thiện cùng đồng hành với nhau. Tuy nhiên, một người không nên đi tìm sự hưởng thụ vật chất giống như đích đến của cuộc đời. Sự khoái lạc chỉ có khi một người đã có được một đời sống tốt đẹp, một đời sống mà ở đó lý trí quyết định ý chí, nguyện vọng và sự thèm muốn của con người. 

1.2  Đức hạnh như là một chức năng của linh hồn
Lý tính và phi lý tính. Phi lý tính gồm hai phần : tinh thần và dục vọng. Phần lý tính được tạo dựng bởi Tạo Hóa – linh hồn của Vũ Trụ. Phi lý tính được tạo dựng bởi các thần linh. Phần phi lý tính là phần không hoàn hảo nó kéo linh hồn rơi xuống nhập vào một thân xác. Vì vậy linh hồn muốn tìm về chỗ cũ của nó, nó phải hướng thượng. Chính vì thế mà đạo đức học của Plato là đi từ trên xuống và mình phải bắt trước. Linh hồn có một bản chất bất trị và xấu nơi những thành phần phi lý tính của nó, nguyên nhân của cái ác đã tồn tại ngay từ tình trạng tiền hiện hữu của linh hồn.
Linh hồn là hoàn hảo theo bản tính. Khi linh hồn từ bỏ thế giới hình thức nhập vào thân xác, nó đi từ thế giới cái một sang thế giới cái nhiều. Linh hồn trôi dạt giữa biển cả rối rắm của muôn vàn sự vật và chịu tác động của mọi thứ sai lạc do bản chất lừa dối của các sự vật. Trong thân xác, linh hồn cảm nghiệm cảm giác ham muốn, lạc thú, đau đớn cũng như sợ hãi và tức giận. Linh hồn cũng cảm nhận được sự yêu thích với một loạt những sự vật đa dạng từ miếng ăn đơn sơ nhất đến nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu, chân lý, cái đẹp thuần túy và vĩnh cửu. Thân xác như một chướng ngại vật khó chịu đối với linh hồn. Khi nhập vào thân xác, sự hài hòa ban đầu của các phần khác nhau của linh hồn tiếp tục bị đảo lộn, tri thức trước kia bị bỏ quên, mà tính trì trệ của thân xác như là một chướng ngại vật khó chịu làm cản trở sự phục hồi tri thức.
Vậy làm thế nào để phục hồi đạo đức đã mất? Plato cho rằng : Lý trí phải dành lại quyền điều khiển các phần phi lý tính của bản ngã. Chỉ tri thức là có khả năng tạo ra đức hạnh, bởi vì chính sự ngu dốt hay tri thức sai lạc đã tạo ra cái ác. Tri thức nằm sâu trong ký ức trí khôn. Những gì linh hồn biết trước kia bây giờ nhớ lại. Nó di chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, từ mê muội sang hiểu biết. Phải có một tác nhân bên ngoài giúp linh hồn thức tỉnh, bắt linh hồn đứng dạy, quay lại…và vươn tới ánh sáng. Khi trí khôn đi từ mức độ thấp lên cao, nó dần nhớ lại những gì nó đã biết trước đây và cần phải biết để đạt sự hòa hợp nội tâm. Sự phát triển đạo đức song song với tri thức của người ấy, vì sự tăng trưởng tri thức làm gia tăng tình yêu đối với chân, thiện và mỹ (cái đẹp)[3]. Đức hạnh là tri thức, vì đó là hành trình đi tìm kiếm khôn ngoan để biết hành động nào là đúng thật sự, tri thức đích thực về những hậu quả của mọi hành vi, đức hạnh là sự hoàn thành một chức năng độc đáo.
Đời sống tốt lành là đời sống có sự hài hòa nội tâm, an lạc và hạnh phúc . Lý trí có một chức năng và chỉ tốt khi nó hành động đúng. Dục vọng có chừng mực, không lấn lướt lý trí, quân bình trong lạc thú và ước muốn sẽ dẫn tới đức hạnh tiết độ. Ý chí thuộc phần tinh thần của linh hồn, giữ giới hạn và chừng mực, tránh hành động nông nổi, trở thành sức mạnh đáng tin cậy dẫn tới đức hạnh can đảm. Lý trí không để mình bị khuấy động bởi những dục vọng dẫn tới đức hạnh khôn ngoan. Tiết độ là sự kiểm soát hợp lý các dục vọng. Can đảm là sự sai khiến hợp lý của tinh thần. Mỗi phần hoàn thành chức năng chuyên biệt của mình sẽ dẫn tới đức hạnh công bằng. Công bằng là đức hạnh tổng hợp, nó phản ánh sự đạt tới an lạc hài hòa nội tâm của con người. Điều này chỉ đạt được khi mỗi phần của linh hồn hoàn thành đúng chức năng của mình. Như vậy, công bằng là sự hài hòa bên trong linh hồn giữa ba quan năng : lý trí, tinh thần và dục vọng. Công bằng là tạo điều kiện cho con người hoàn thành chức năng của mình.

2. Đạo đức học xã hội.
Ba cấp nhà nước là sự mở rộng của ba thành phần linh hồn, gồm : triết gia vua (Vàng), giai cấp những người giữ gìn an ninh (Bạc) và gia cấp thương gia cùng các thợ thủ công (Đồng). Vậy muốn có một xã hội tốt lành thì phải tạo ra một xã hội công bằng. Công bằng trong xã hội chính là tạo điều kiện cho con người hoàn thành chức năng của mình. “Công bằng khi thể hiện ra đời sống chính trị thành quốc cũng là sự hài hòa giữa ba thành phần xã hội : triết gia vua, gia cấp những người giữ gìn an ninh và gia cấp thương gia cùng các thợ thủ công. Công bằng là sự đồng thuận hoàn hảo, sự hài hòa trên dưới của cả ba : những thèm muốn (dục vọng) lệ thuộc vào tâm hồn (tinh thần) và tâm hồn vào lý trí, cũng như công bằng xã hội là sự hài hòa trên dưới của ba giai cấp cần thiết cho nhau : những người cai trị, những chiến sĩ hay những người giữ an ninh và những người thợ thủ công làm công việc sản xuất”[4].
3. Ảnh hưởng đạo đức học của Plato đến các trường phái triết học : chủ nghĩa Khắc Kỷ, Tân Plato, Thánh Augustinô và Trên Xã Hội, Tổ Chức, Hội Dòng.
3.1 Đối với chủ nghĩa Khắc Kỷ
Quan niệm rằng vũ trụ và thượng đế là một, sống minh triết là không sống theo những đam mê nhục dục, biết được cái vận mệnh, biết phân biệt cái thay đổi và không thay đổi, đóng trọn vai trò của mình trong vở kịch định mệnh (nhân loại). Trường phái này đã dựa trên đạo đức học của Plato : định mệnh là sự giằng co giữa hai lực, lực vật chất thì kéo xuống còn lực của hồn thì kéo lên ; thuyết chính trị của Plato : Vua, Lính và Thương Gia, và dựa trên thuyết hồn của Plato dùng lý trí để điều khiển tinh thần và dục vọng.

3.2 Đối với Tân Plato
Nỗ lực kết nối giữa Plato (hình học) và Aristotle (siêu hình học). Thuyết lan tỏa : hồn vũ trụ sinh ra các cái hồn khác. Theo Plato cái hồn vũ trụ được tạo dựng từ ý niệm và vật chất. Đối với vấn đề đạo đức, con người biết con đường đi lên và bản chất của sự thiện hảo.

3.3 Đối với Thánh Augustinô
 Khao khát của con người tạo vật hữu hạn đam mê cái vô hạn (hình ảnh con chim trong lồng của Plato). Do đó chỉ có cái vô hạn (Thiên Chúa) mới thỏa mãn cái mà con người tìm kiếm sự thiện hảo. Bản chất con người là hữu hạn, vì vậy con người phải sống trong tình yêu, sống theo trật tự sau:
* Thiên Chúa
* Chính Mình
* Tha Nhân
* Sự Vật
Hồn chỉ thỏa mãn với những cái gì bất diệt thôi. Đối với Plato ; hồn luôn đánh động con người để trở về với cái ý niệm (hồn) theo thuyết hồi tưởng của ông. Còn Thánh Augustinô : con người cần phải trở về với chính mình để tìm kiến sự Thiện Hảo (thuyết soi sáng của Augustinô)
3.4 Đối với xã hội, tổ chức hay hội dòng
            Tư tưởng cảm nghiệm tôn giáo của đấng sáng lập (viễn tưởng), qui tụ các môn đệ và bành trướng ý tưởng ban đầu sau đó phát triển mạnh mẽ, qui chế hệ thống, sống theo luật và hiến pháp, tranh chấp và cách sống hiến pháp, khủng hoảng, canh tân, giải tán và ly khai. Khi canh tân người ta  phải trở về với ý tưởng ban đầu, cắt bỏ những cái không phù hợp. Qua tiến trình trên ta thấy xã hội phản ảnh sự quân bình của con người. Xã hội muốn có trật tự, ổn định thì con người trong xã hội đó phải sống quân bình. Đạo đức học cá nhân của Plato cho thấy rõ hồn ở trong xác, xác làm cho hồn nặng nề, con người phải sống hài hòa quân bình với chính mình với thiên nhiên và với vũ trụ.
4. Ưu và Khuết điểm đạo đức học của Plato.
4.1 Ưu điểm
Plato đặt nền tảng đạo đức trên cái mô biểu, thế giới phản ánh cái thực tại sâu hơn nó, hình bóng phản ánh thực tại, những gì ta sống là phản ánh thực tại. Cá nhân tìm sự quân bình, lý trí điều khiển đam mê và dục vọng. Xã hội vua phải lãnh đạo lính và thương gia. Đạo đức học của Plato nói lên được cái cốt lõi của con người và xã hội là sự Thiện Hảo.
4.2 Khuyết điểm
Quá lý tưởng khó mà áp dụng cho xã hội dân chủ ngày nay. Con người có sự khao khát thiện hảo, nhưng ai có thể nói về cái ý niệm tuyệt đối và thiện hảo? Khía cạnh cá nhân lý trí điều khiển tinh thần và dục vọng, nhưng con người còn phức tạp hơn nữa : nó có bản năng, siêu ngã. Đạo đức học của Plato quá đơn giản, chưa giải quyết được cái tất định và tự do.     
                                                                                                                          Paul Alex


[1]Sđd Trang 57
[2]Sđd Trang 58
[3] Sđd, Trang 61
[4] Hỏi Đáp Triết Học Tập III, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, NXB Trẻ, Trang 29, 30

                                                                                                                                          Paul Alex